Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương IX: Dẫn Chứng Lời Kinh

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11006)
Chương IX: Dẫn Chứng Lời Kinh

VẠN PHÁP QUI TÂM LỤC
Thiền Sư Tổ Nguyên 
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Đắc Pháp

CHƯƠNG IX
DẪN CHỨNG LỜI KINH

Muôn pháp về tâm hỏi đáp rõ ràng. Bậc thượng căn vừa xem qua liền ngộ bản tâm, kẻ trung hạ căn ngu độn nghi ngờ bài báng chẳng tin, nên dẫn lời kinh của Phật để chứng minh hầu đaọn trừ những nghi hoặc, tin một cách thành thật chẳng lầm. Hoặc có người được ngộ, y lời dạy mà vâng làm, vào thẳng tòng lâm của Cổ phật, vượt ngang qua bờ cõi then chốt của Tổ Sư. Có thể bảo ngay nơi nhục nhãnviên thông Phật nhãn, ngay nơi tâm phàm mà hiển chơn tâm. Nay thuật lời trong kinh Phật và lời của Tổ sư để ấn chứng chánh lý qui tâm.

Kinh Bát Nhã nói: “Hết thảy chư Phật đồng ở một chỗ, gom về cảnh giới vô lậutự tánh thanh tịnh”.

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lời lẽ thuyết pháp (của Như Lai), kẻ tiểu trí vọng phân biệt, nên sanh chướng ngại, chẳng rõ ở tự tâm. Không rõ tự tâm làm sao biết chánh đạo? Kẻ kia dùng tư tưởng điên đảo nên tăng trưởng tất cả điều ác”.

Kinh Lăng Già nói: “Đệ nhất nghĩa đế chỉ là tâm. Vô vàn tướng bên ngoài, tất cả đều không có. Kẻ phu kia chấp trước vào ác kiến, khi dối tự tha, không thấy rõ được chỗ trụ như thật của hết thảy các pháp. Đại Huệ! Hết thảy các pháp như thật, ấy nghĩa là hay liễu đạtduy tâm sở hiện”.

Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: “Người xuất gia làm sa môn, (phải) đoạn dứt ham muốn, khử trừ khát ái, biết được nguồn tâm của mình, đạt được lý gốc của Phật, ngộ pháp vô vi, bên trong không sở đắc, bên ngoài không sở cầu, tâm không hạn cuộc nơi đạo, cũng không tạo nghiệp, vô niệm vô tác, phi tu, phi chứng, phải trải qua các ngôi thứ mà tự cao tột. Đó gọi là Đạo!”

Kinh Bảo Vân nói: “Hết thảy các pháp, tâm là trên hết. Nếu biết tâm thì có thể biết được tất cả các pháp”.

Bài kệ trong Kinh Nhơn Quả nói: “Tạo tất cả thiện ác đều từ tâm tưởng sanh. Cho nên người xuất gia chơn chánh đều lấy sự minh tâm làm gốc”.

Kinh Niệm Phật Tam Muội nói: “Tâm như kim cang, với ngừoi thiệncăn hay xuyên thấu tất cả pháp. Tâm như áo Ca lân đề, với người thiện căn hay mềm dẻo. Tâm như bể cả, với người thiện căn hay nhiếp các giới tu. Tâm như đá bằng phẳng, với người thiện căn hay đứng giữ tất cả sự nghiệp. Tâm như núi chúa, với người thiện căn hay phát sanh tất cả pháp lành. Tâm như cõi đất, với người thiện căn hay gánh vácgìn giữ sự nghiệp cho chúng sanh”.

Kinh Định Ý nói: “Trong thiền định chẳng dính mắc trong ngoài, cũng không ở giữa, đó gọi là nhứt tâm”.

Kinh Bảo Khiếp nói: “Văn Thù sư lợi bảo Xá lợi Phất rằng như hoả tai cháy mạnh trong hằng sa kiếp, rốt lại cũng không đốt được hư không. Xá Lợi Phất! Cũng như vậy, mỗi mỗi chúng sanh tạo tội ngũ nghịch, cùng nghiệp chẳng lành trong hằng sa kiếp, nhưng mà tâm tánh họ rốt lại cũng chẳng thể nhơ”.

Bài kệ torng Kinh Đại hư không tạng Bồ tát sở vấn nói:

Hư không lìa sanh diệt
Pháp giới không tới lui
Các pháp nương tâm mà trụ.
Trong không, không có sắc phi sắc
Tâm tánh cũng như vậy
Hư không chỉ giả danh
Tâm ý thức cũng như vậy.

Bài kệ Kinh Lăng Già nói:

Các pháp không pháp thể
Mà nói chỉ là tâm
Chẳng thấy dược tự tâm
Mà khởi ra phân biệt.

Kinh Xuất Diệu nói: “Người thân mặc giáp giới luật, mà tâm không có gươm trí huệ, thì không làm tan hoại được bọn đầu sỏ kiết sử. Cho nên biết, nếu chẳng quán tâm cho diệu huệ thành tựu, thì không thể chặt đứt được căn bản vô minh”.

Kinh Niết Bàn nói: “Sư tử rống ấy là nói một cách quyết định rằng tất cả chúng sanh dều có Phật tánh. Nếu biết tự tâm mình Phật tánh đầy đủ, thì ngoài tánh lại có pháp đáng cầu ư?”.

Kinh Pháp Hoa Tam Muội nói: “Không dính mắc, không chỗ nương, không hệ luỵ vào tâm tịch diệt, ban tánh như hư không. Đó gọi là vô thượng đạo”.

KỆ CỦA BẢY ĐỨC PHẬT

Bài kệ của Phật Tỳ Bà Thi nói:

Thân từ trong vô tướng thọ sanh,
Dụ như huyễn, xuất các hình tượng.
Người huyễn, tâm thức xưa nay không,
Tội phước đều không, không chỗ trụ.

Bài kệ của Phật Thi Khí nói:

Tạo các pháp lành vốn là huyễn,
Tạo các nghiệp ác cũng là huyễn.
Thân như hòn bọt tâm như gió,
Huyễn hiện không nguồn, không thật tánh.

Bài kệ của Phật Tỳ Xá Phù nói:

Vay mượn bốn đại ngỡ là thân,
Tâm vốn không sanh nhơn cảnh có.
Cảnh trước nếu không tâm cũng không.
Tâm như huyễn khởi rồi diệt.

Bài kệ của Phật Câu Lưu Tôn nói:

Thấy thân không thật là Phật thấy
Rõ tâm như huyễn là Phật rõ.
Rõ được thân tâm bản tánh không.
Người nầy cùng Phật có khác gì?

Bài kệ của Phật Câu Na Hàm Mâu Ni nói:

Phật chẳng thấy thân biết là Phật.
Nếu thật có biết riêngkhông Phật.
Người trí hay biết tội tánh không,
Thản nhiên chẳng sợ việc sanh tử.

Bài kệ của Phật Ca Diếp nói:

Hết thảy chúng sanh tánh thanh tịnh,
Từ xưa không sanh không thể diệt.
Ngay thân tâm nầy là huyễn sanh.
Trong huyễn hoá không tội, không phước.

Bài kệ của Phật Thích ca Mâu ni nói:

Huyễn hoá không nhơn cũng không sanh,
Đều là tự nhiên thấy như vậy.
Các pháp thảy đều tự hoá sanh,
Huyễn hoá không sanh, không chỗ sợ.

LỜI CHƯ TỔ

Bài kệ của sơ Tổ Bồ đề đạt ma nói:

Chớ thấy ác mà sanh chán,
Chớ thấy thiện mà sanh ưa,
Chẳng bỏ trí mà gần ngu,
Chẳng lbỏ mê mà đốn ngộ.
Đạt đạo lớn chừ quá lượng,
Thông Phật tâm chừ vô số,
Chẳng cùng phàm thánh đồng vai,
Siêu nhiên gọi đó là TỔ.

Nhị Tổ nói: “Tâm nầy là Phật, tâm nầy là pháp, pháp và Phật không hai. Tăng bảo cũng vậy”.

Tam Tổ nói: “Mắt nếu chẳng ngủ các mộng tự trừ. Tâm nếu không khác muôn pháp nhứt như. Nhứt như thể mầu, như vậy quên duyên, muôn pháp đều thấy, trở về tự nhiên”.

Tứ Tổ nói với Ngưu đầu Pháp Dung rằng: “Trăm ngàn cửa diệu đồng về gang tấc, hằng sa công đức gom ở nguồn tâm. Tất cả định môn, huệ môn và hạnh môn đều đầy đủ, thần thông diệu dụng đều ở nơi tâm ông”.

Ngũ Tổ nói: “Muốn biết pháp yếu, tâm là căn bản của mười hai bộ kinh. Chỉ có pháp nhứt thừa, pháp nhứt thừanhứt tâm vậy. Chỉ giữ nhứt tâm tức là tâm chơn như môn. Hết thảy các pháp chẳng ra ngoài tự tâm, chỉ tự tâm biết tâm không hình sắc. Chư Tổ chỉ lấy tâm truyền tâm, bậc liễu đạt ấn khả, không pháp gì riêng”.

Lục Tổ nói: “Hết thảy các ngươi tự tâm là Phật, chớ có hồ nghi. Ngoài tâm không có một pháp có thể dựng lập, đều là tự tâm sanh muốn thứ pháp. Kinh nói: “Tâm sanh muôn ngàn pháp sanh”. Pháp kia không hai, tâm kia cũng vậy. Đạo kia thanh tịnh không có các tướng. Ông chớ quán thanh tịnh và không (rỗng) tâm kia Tâm nầy không hai, không thể thủ xả, đi đứng nằm ngồi đều một trực tâm tức là tịnh độ. Y lời nói ta nhứt định ông sẽ được bồ đề”.

TUYỆT QUÁN LUẬN CỦA ĐẠI SƯ NGƯU ĐẦU PHÁP DUNG

HỎI: Thế nào là tâm?

ĐÁP: Chỗ quan sát của sáu căn đều là tâm.

HỎI: Tâm chỗ nào?

ĐÁP: Tâm ngay chỗ diệt.

HỎI: Gì là thể?

ĐÁP: Tâm là thể.

HỎI: Gì là Tông (chủ)?

ĐÁP: Tâm là Tông.

HỎI: Gì là gốc?

ĐÁP: Tâm là gốc.

HỎI: Thế nào là định huệ đồng vui?

ĐÁP: Tâm tánh lặng lẽ là định, thường hiểu rõ cái lặng lẽ ấy là Huệ.

HỎI: Gì là trí?

ĐÁP: Cảnh dấy lên mà hiểu rõ là trí.

HỎI: Gì là cảnh?

ĐÁP: Tự thân tâm tánh là cảnh.

HỎI: Gì là thư (rải ra)?

ĐÁP: Dụng chiếu soi là thư.

HỎI: Gì là quyện (cuốn lại)?

ĐÁP: Tâm lặng lẽ không đến đi là quyện. Rải ra thì đầy khắp pháp giới, cuốn lại thì dấu vết khó tìm.

HỎI: Gì là pháp giới?

ĐÁP: Không bờ mé để chỉ bày được gọi là pháp giới.

Thiền sư Trù nói: “Hết thảy duyên bên ngoài gọi là tướng định, sự phải quấy sanh diệt, tất cả đều do tự tâm. Nếu tự tâmvô tâm ai ngại gì phải quấy? Năng sở đều không, tức các tướng đều lặng”.

Bài kệ của Bàng Cư Sĩ nói:

Muôn pháp từ tâm khởi,
Tâm sanh muôn pháp sanh.
Sanh sanh chẳng rõ có,
Tới lui uổng tu hành.
Nhắn gửi người tu đạo.
Không sanh, có chẳng sanh.
Nếu hay đạt lý nầy,
Chẳng động, thoát hầm sâu.

Bài ca của Hòa Thượng Đằng Đằng:

Tu đạo, đạo không thể tu,
Hỏi pháp, pháp không thể hỏi.
Người mê không ngộ sắc không,
Kẻ đạt vốn không nghịch thuận.
Tám muôn bốn ngàn pháp môn,
Rốt lý chẳng hơn gang tấc.
Phiền não chính là Bồ đề,
Hoa sạch sanh nơi bùn nhớp...
Chớ dối, chơi châu huyện khác.

Thiền sư Ngọa Luân nói: “Thấu đáo được tâm tánh kia trạm nhiên rỗng suốt, xưa nay chẳng sanh, cũng chẳng diệt, nào phải gom ép. Chỉ biết tâm khởi vọng, tức là phải hướng nơi phản chiếu lại nguồn tâm, không có gốc rễ tức là chỗ vô sanh. Vì vô sanh nên tâm tịch tĩnh vô tướng vô vi”.

Bài tụng của thiền sư Trí Đạt nói:

Cảnh lập, tâm liền có,
Tâm không, cảnh chẳng sanh.
Nếu đem tâm cột cảnh,
Tâm cảnh cả đều mà,
Cảnh tâm mỗi tự dừng,
Tâm cảnh tánh thường trong.
Ngộ cảnh tâm không khởi,
Mê tâm cảnh đồng hành,
Nếu mê tâm tạo cảnh,
Tâm cảnh loạn tung hoành,
Ngộ cảnh tâm vốn tịnh,
Biết tâm cảnh vốn trong.
Biết tâm không cảnh tánh,
Rõ cảnh tâm không hình.
Cảnh rỗng tâm lặng lẽ,
Tâm chiếu cảnh im lìm.

Đại sư Phổ Ngạn nói: “Đại đạo rộng lớn, chỉ một chơn tâm. Thiện ác chớ nghĩ thần trong, vật hiện, lại có lo gì?”.

Hòa Thượng Qui Sơn nói: “Các pháp trong ngoài đều chẳng thật, từ tâm hóa sanh, tất cả đều giả danh. Mặc tình pháp tánh châu lưu (trôi khắp), chớ đoạn cũng chớ tiếp tục”.

Hòa thượng Hoàng Bá nói: “Chỉ ngộ nhứt tâm lại không một pháp nhỏ có thể được. Đây tứ là chơn Phật. Phật cùng chúng sanh một tâm không khác. Chẳng bằng ngay nơi lời tự nhận giữ cái bổn pháp. Pháp nầy tức là tâm, ngoài tâm không pháp. Tâm nầy tức là pháp, ngoài pháp không tâm”.

Hòa thượng Ngưỡng Sơn nói: “Đốn ngộ tự tâm không tướng, dụ như hư không. Nương nơi căn mà phát minh, tức là bản tâm đủ hằng sa diệu dụng, không có chỗ gìn giữ riêng, không có chỗ an lập riêng, tức là quê nhà, tức là nước nhà”.

Hòa thượng An Quốc nói: “Kinh nói nên không có chỗ trụ mà sanh tâm. Không chỗ trụ ấy là chẳng trụ sắc, chẳng trụ thinh, chẳng trụ mê, chẳng trụ ngộ, chẳng trụ thể, chẳng trụ dụng. “Mà sanh tâm” ấy tức là tất cả chỗ mà hiển nhứt tâm. Nếu trụ vào thiện mà sanh tâm tức là điều thiện hiện. Nếu trụ vào ác mà sanh tâm tức là đều ác hiện, vậy thì bổn tâm liền ẩn mất. Nếu không chỗ trụ thì mười phương thế giới chỉ một tâm. Tin biết gió phan chẳng động, tâm ấy động”.

Hòa thượng Qui Tông nói: “Ngay tâm nầy là Phật, tột đáy chỉ có tánh. Sơn hà đại địa một pháp ấn định, là thần chú lớn chơn thật không dối, là bản nguyên của chư Phật, là cội gốc và là xương tủy của bồ đề. Phật thế nào mới phải? – Ngay lời nói nầy là phải, lại không người khác. Kinh nói: “Ví như một hình sắc tùy theo cái nhìn của chúng sanh mà có muôn ngàn tên. Tất cả pháp chỉ là một pháp, tùy chỗ mà mang tên”.

Bài kệ trong Luận Bảo Tánh nói:

Như hư không biến khắp cả,
hư không chẳng phân biệt.
Tự tâmvô cấu tâm,
Cũng không phân biệt cùng khắp.

Pháp sư Phục Lễ nói: “Xét về ý nghĩa của nghiệp, thì nghiệp do tâm khởi, tâm là dụng của nghiệp, nghiệp dẫn tâm thọ sanh, tâm theo nghiệp tạo cảnh. Vậy thì nhơn nghiệp mà thọ thân, thân trở lại tạo nghiệp. Từ tâm tạo cảnh, cảnh lại sanh tâm. Như bóng theo hình mà ngay hay cong, như vang theo tiếng mà có lớn hay nhỏ”.











Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31347)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26229)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27537)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27929)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26726)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31244)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20282)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22967)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30078)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21596)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20283)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22683)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20783)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30339)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28802)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34744)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44248)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35540)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22564)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21386)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20701)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24772)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37937)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19073)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19354)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21849)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20886)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29534)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35163)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28842)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32620)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26235)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28941)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43167)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34979)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43955)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37924)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21342)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43040)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49029)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39861)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53801)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36833)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40828)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49743)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47331)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27746)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27038)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27245)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24081)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20865)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34327)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22485)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25137)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25860)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22965)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22477)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21769)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23329)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21192)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant