Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 1: Nhận thức tổng quát

31 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9682)
Chương 1: Nhận thức tổng quát

Tủ Sách Đạo Phật Ngày Nay
CON ĐƯỜNG BỒ TÁT NHẬP THẾ
TRONG KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC

Thích Viên Giác
Nhà xuất bản Thời Đại

Chương 1: Nhận thức tổng quát

I. TÁC GIẢ SOẠN DỊCH KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC

Kinh Bát Đại nhân Giác do Ngài An Thế Cao dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán vào thời Hậu Hán đời vua Hán Tuyên Đế, niên hiệu Kiến Hòa năm thứ hai (148. TL). Ngài là Thái tử nước An Tức (nay là Ba Tư). Ngài còn có tên là An Thanh hay An Hầu, nhường ngôi vua cho chú mà đi xuất gia. Ngài là một người con hiếu hạnh, kiến thức uyên bác, thông thiên văn địa lý, y dược và châm cứu. Đối với Phật học, Ngài thông hiểu tam tạng Kinh, Luật, Luận nhất là đối với thiền học, đặc biệt Ngài hiểu cả tiếng chim thú. Ngay khi còn ở tại gia, Ngài đã giữ gìn giới pháp tinh nghiêm, thâm cảm lẽ vô thường của đời sống, chí nguyện xuất gia canh cánh bên lòng. Vì vậy, sau khi mãn tang cha Ngài nhường ngôi cho chú. Đây là một yếu tố quan trọng- Ngài thấu hiểu vai trò người cư sĩ tại gia vẫn có thể tu hành thanh tịnh và làm lợi ích chúng sanh. Cũng có lẽ vì vậy mà Ngài đã thiết lập hướng đi Kinh Tám điều Giác ngộ của bậc Đại nhân có đường lối tu tập đặc biệt so với Kinh Nguyên thủy.

Ngài An Thế Cao đến Trung Hoa bằng đường biển vào năm 146-147, là người đầu tiên dịch số lượng kinh sách lớn ra Hán văn, nhất là các Kinh sách về tu thiền. Vì vậy, Ngài được coi là người lập ra thiền tông vào thời kỳ đầu của Phật giáo Trung Hoa. Mặc dù đến Trung Hoa, Ngài mới học Hán văn nhưng khả năng dịch thuật của Ngài rất chính xác như Ngài Đạo An nhận xét: “Trước sau truyn dch đa s lm ln, duy ca Ngài dch đứng đầu tt c (HT Trí Quang). Được như vậy là nhờ Ngài thành lập những bộ phận chuyên môn dịch kinh sách một cách có hệ thống. Cuộc đời của Ngài có nhiều kỳ tích đặc biệt như Ngài biết trước những duyên nghiệp của mình, Ngài đã sắp đặt mọi việc để kết thúc đời mình: “Ngài nhờ người bán rương thuê một người giúp việc và đặt tên cho người ấy là Phước Thiện, Ngài nói là “Thin tri thc” của ta. Quả nhiên về sau người nầy đâm bên hông của Ngài và Ngài mất” (Trí Quang- dịch giải Kinh Bát Đại nhân Giác).

Ngài ở Trung Hoa hơn hai mươi năm (147-171) chuyên dịch Kinh, số lượng dịch từ 34 đến 40 bản chia làm hai loại: Kinh tạng và các tác phẩm tu tập thiền định, tiêu biểu như Kinh An Ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập, A Tỳ Đàm, Ngã pháp Tứ Đế, Thập nhị nhân duyên, Chuyển pháp luân, Bát thánh đạo, Thiền hành pháp tưởng, Tu Hành đạo... Ngài được coi là vị Tổ khai sơn của Phật giáo Trung Hoa.

II. XUẤT XỨ

Kinh Bát Đại nhân Giác do Ngài An Thế Cao dịch vào thế kỷ thứ II. Mặc dù gọi là kinh nhưng không phải là một bản kinh theo truyền thống, tức là có Phật thuyết và đối tượng nghe thuyết, mà chỉ là những Phật ngôn hay những bài kệ cô đọng được rút ra từ Kinh tạng, hoặc từ những ý nghĩa giáo pháp tâm đắc của tác giả. Hòa thượng Trí Quang trong tác phẩm: “Dịch giải Kinh Tám điều Thượng nhân Giác ngộ” nhận định: “Kinh nầy trích lục Phật ngôn mà tập thành không phải là một pháp thoại tức là một bản kinh. Do đó mà có bản ghi là “Hiền Thánh đất Ấn biên tập”. Tôi ước lượng có thể chính tác giả trích và dịch thành kinh nầy” (sđd). Đồng với quan điểm trên, H-T Thanh Từ cũng nhận xét: Ngài (An Thế Cao) phương tiện rút từng phần tinh yếu của Phật pháp trong nhiều bộ kinh mà dịch, phân ra thứ nhất, thứ hai, thứ ba... đến thứ tám, tập thành Kinh Bát Đại nhân Giác để cho người mới phát tâm tu học, dễ nắm được những điểm cần yếu trong Phật pháp” (K. Bát Đại nhân Giác giảng giải, NXB Thuận Hoá- Huế 1996).

Như vậy, bản Kinh Bát Đại nhân Giác được xác định là trích lục từ các Phật ngôn ở trong các kinh, tác giả của việc trích lục và sắp xếp từ một đến tám là do chính Ngài An Thế Cao dịch và soạn.

Một vấn đề đặt ra là Ngài trích lục biên soạn từ kinh nào? Tại sao lại tám điều chứ không bảy hay chín?

Chúng tôi cho rằng Ngài An Thế Cao không hoàn toàn tự ý trích lục hay sáng tác mà có cơ sở để Ngài dựa vào đó mà xây dựng tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân. Cơ sở nầy chính là Kinh tạng A- hàm; chính xác là Kinh Bát Niệm, tức là Kinh tám điều suy niệm của bậc Đại nhân. Nội dung của Kinh Bát Niệm nêu lên tám điều suy niệm của một người trên đường giải thoát, nhờ suy niệm quán chiếu tám điều ấy mà được chứng đạt chân lý tối hậu. Tương đương với Kinh Bát Niệm của Trung A-hàm, Kinh Tăng Chi (Anguttara Nikàya) chương tám pháp, phẩm Gia chủ, mục Anuruddha cũng đưa ra tám điều tư niệm của bậc Đại nhân, nội dung hoàn toàn giống nhau, đều thuộc về Kinh tạng Nguyên thủy. Cần nói thêm rằng trong Di Giáo tám công đức xuất thế chính là tám điều tư niệm nầy. 

Như vậy, có thể nói Kinh Bát Niệm của Trung A- hàm và Kinh Anuruddha (Sutta) của Tăng Chi cũng như nhiều kinh khác tương đương trong hệ thống Kinh tạng Nguyên thủy, đã làm cơ sở cho Ngài An Thế Cao soạn dịch Kinh Bát Đại nhân Giác ra Hán văn.

III. LIÊN HỆ CÁC KINH BÁT NIỆM, ANURUDDHA SUTTA VÀ KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC

1. Những điểm giống nhau

a. Đề Kinh: Kinh Bát Đại nhân Giác dịch là Tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân; Kinh Bát Niệm dịch là Tám điều suy niệm của bậc Đại nhân; trong Anuruddha Sutta dịch là tám điều tư niệm của bậc Đại nhân. Từ giác ngộ, suy niệm hay tư niệm ý nghĩa là một. Kinh Bát Đại nhân Giác có khi dùng Giác tri như điều một Giác ngộ, điều hai, ba bốn dùng Giác tri, điều năm Giác ngộ, điều sáu Giác tri, điều bảy Giác ngộ, điều tám Giác tri. Dùng từ ngữ Giác ngộ và Giác tri lẫn lộn có nghĩa là cả hai từ ngữ là một, cả hai đều chỉ cho trí tuệ quán chiếu, là tư duy sâu sắc chớ không phải nhận thức thông thường. A- hàm dịch Tư niệm hay Suy niệm cũng chỉ cho sự tư duy sâu sắc an trú đối tượng, là sự thấy rõ và thường xuyên đối tượng quán chiếu. Như vậy, Giác ngộ, Giác tri, Suy niệm, Tư niệm chỉ là một mà thôi.

Tất cả các kinh trên đều dùng chữ Đại nhân. Kinh Bát Niệm, Phật dạy: “Này A-na-luật-đà, nếu thầy thành tựu tám suy niệm của bậc Đại nhân...”. Tăng Chi Phật dạy: “Này Anuruddha, khi nào người suy nghĩ đến tám tư niệm nầy của bậc Đại nhân...”

Như vậy đề kinh không có gì sai khác, có thể nói rằng đề Kinh Bát Đại nhân Giác được dịch từ tám tư niệm của bậc Đại nhân trong Kinh tạng Nguyên thủy.

b. Nội dung Kinh: Kinh Bát Đại nhân Giác đưa ra tám điều thứ tự như sau :

1. Tứ niệm xứ

2. Thiểu dục

3. Tri túc

4. Tinh tấn

5. Trí tuệ 

6. Bố thí

7. Yểm ly

8. Tu hạnh chịu thay. (lợi tha tuyệt đối)

Kinh Bát Nim và Anuruddha Sutta:

1. Vô dục (thiểu dục )

2. Tri túc

3. Viễn ly

4. Tinh tấn

5. Chánh niệm

6. Định ý

7. Trí tuệ

8. Không hý luận

Nhng điu ging nhau gm có:

1. Tu Tứ Niệm Xứ tương đương chánh niệm

2. Thiểu dục tương đương thiểu dục hay vô dục

3. Tri túc tương đương tri túc

4. Tinh tấn tương đương tinh tấn

5. Trí tuệ tương đương trí tuệ

6. 7. và 8 không tương đương A- hàm và Nikàya

2. Nhng đim khác nhau

a. V hình thc: Kinh Bát Đại nhân Giác do Ngài An Thế Cao soạn dịch như một tác phẩm văn học trình bày ngắn gọn, ngôn từ văn vẻ, tương tự như những Phật ngôn của Kinh Pháp Cú, không nói riêng cho đối tượng cụ thể nào, không mang hình thức pháp thoại như những Kinh truyền thống. Còn Kinh Bát Niệm và Anuruddha sutta là một thời pháp thoại do đức Phật dạy trực tiếp Anuruddha và sau đó Ngài giảng rộng cho chúng Tỳ Kheo nên Kinh mang hình thức truyền thống.

b. V mt ni dung: Kinh Bát Đại nhân Giác có ba điều cuối là bố thí, yểm ly, tu chịu thay mà A- hàm không có. Ngược lại A- hàm có ba điều viễn ly, định ý và không hý luận thì Kinh Bát Đại nhân Giác không có.

Sự khác biệt giữa hai Kinh qua ba điều trên nói lên sự khác biệt về xu hướng tu tậphành đạo của Nguyên thủyĐại thừa hay nói cách khác giữa một vị Tỳ kheo và một vị Bồ tát. Qua sự khác biệt trên chúng ta có một vài nhận xét sau:

Về căn bản tu tập thì cả hai Kinh đều giống nhau, những đức tính căn bản của người tu hành gồm có: Thiểu dục, tri túc, chánh niệm, tinh tấn, trí tuệ, đều được đề cập trong hầu hết Kinh tạng Phật giáo. Bởi vì đó là những bước đi phải có và đủ mới bước lên thánh đạo, dù là Nguyên thủy hay Đại thừa.

Con đường tu tập của Bát Đại nhân Giác không qua thiền định. Trong khi đó yếu tố thiền định trong Kinh Bát Niệm là chủ yếu. Mục tiêu của Phật là phát triển trí tuệ, khả năng đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Có thể do định phát tuệ nhưng có thể do quán niệm mà phát tuệ hoặc cũng có thể do đại nguyện mà tuệ sanh. Con đường quán niệmđại nguyệncon đường của Bát Đại nhân Giác.

Hạnh bố thí là hạnh chung của người phật tử không kể là tại gia hay xuất gia. Thông thường thì người xuất gia thực hành pháp thí, người tại gia thì thực hành tài thí. Bố thí là một trong sáu hạnh Ba la mật trong truyền thống Đại thừa rất được nhấn mạnh. Người phật tử tại giađiều kiện hơn để bố thí, vì theo kinh văn thì chủ yếu là bố thí vật chất.

Hạnh yểm ly hay ly nhiễm chính là xa rời năm dục, đối với người xuất gia thì đây là bước đầu, nhưng đối với người tại gia là bước quan trọng vì họ sống giữa thế tục, kinh văn đặt vấn đề nầy vào vị trí thứ bảy tức rất coi trọng nó. Cho nên hạnh nầy như là dành cho người cư sĩ, chính cư sĩ mới dấn thân vào cuộc sống để thực hành Bồ tát hạnh, họ sống thế nào để như hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Hạnh tu chịu thay là nguyện thay cho chúng sanh chịu khổ để cho chúng sanh được hạnh phúc, đây là hạnh lợi tha tuyệt đối, là lý tưởng của Bồ tát, là một hạnh nguyện vĩ đại, phải là người có tâm từ bi lớn và trí tuệ lớn mới thực hành nổi. Một trong những Bồ tát tiêu biểu cho hạnh nầy là Bồ tát Địa Tạng. Ngài Địa Tạng phát đại nguyện rằng khi nào địa ngục hết chúng sanh thọ khổ Ngài mới thành Phật. Con đường Bồ tát rất coi trọng về nguyện lực, từ nguyện lựctuệ giải thoát sinh và dĩ nhiên công hạnh tu tập phù hợp với người cư sĩ tại gia sống trong biển khổ. Đây là pháp môn tu tập đặt biệt của Phật Giáo.

Tóm lại ba hạnh sau cùng của Kinh Bát Đại nhân Giác biểu hiện hành động của một vị Bồ tát đi vào cuộc đời hóa độ chúng sanh, chúng ta cũng nhận thấy rằng hình ảnh một vị Tỳ kheo rất khó xông xáo vào đời sống, vị cư sĩ có nhiều điều kiện hơn. Tôi có cảm tưởng rằng tác giả đã gửi gắm lý tưởng nầy cho người cư sĩ hơn là người xuất gia. Hòa thượng Tinh Vân, trong tác phẩm “Mười bài giảng Kinh Bát Đại nhân Giác” Ngài nói: “ Phần đông các Đại đức đều thừa nhận Kinh nầy rất thích hợp cho hàng phật tử tại gia thọ trì…. Theo tôi (Ngài Tinh Vân) nghĩ, Kinh này là một quyển bảo điển tối trân quý để kiến lập nhân sinh Phật giáo, tu học tại gia Phật giáo” (Minh Quang dịch). Mẫu người lý tưởng của Bát Đại nhân Giác là một người cư sĩ thực hiện lý tưởng giải thoát ngay trong đời sống vốn nhiều ô nhiễm và khổ đau. Đó là mẫu người tiêu biểu cho hạnh nguyệngiải thoát. Trong Phật Giáo đại thừa Bồ tát cư sĩ được đề cao như trường hợp Duy Ma Cật, vị trí của ông được coi là siêu việt hơn các vị Bồ tát xuất gia. Phật Giáo Bắc Tông, Tỳ kheo thường thọ thêm Bồ tát giới nhưng rõ rằng là hoạt động rất hạn chế. Trong Bồ tát giới cũng dành khá nhiều giới được coi là của người cư sĩ. Sự bao hàm đường lối của người xuất giatại gia vào trong con đường Bồ tát hạnh làm cho các tác phẩm Đại thừa trở nên bao quát, phong phú, rộng rãi nhưng cũng tạo ra một vài trường hợp thiếu nhất quán.

Đối với ba đức tính thuộc A- hàm và Nikàya mà Bát Đại nhân Giác không có là: Sống viễn ly, thiền định và không hý luận. Ba đức tính nầy có giá trị khác: Hình ảnh của một vị Tỳ Kheo sống ở trong rừng hay xóm làng vắng vẻ, không thích tụ hội đông người, nhờ đó vị Tỳ Kheo dễ dàng tu tập tâm định và chứng đạt chân lý, từ đó thấy rõ bản chất của các pháp, chấm dứt những hý luận vô ích những tư duy huyễn hoặc, đạt được an lạc tịch tĩnh Niết bàn. Đó là hình ảnh của Tăng bảo, biểu tượng của đạo đứcgiải thoát. Đó không phải là lối sống của mọi người, chắc chắn không phải là lối sống của người cư sĩ. Có người cho rằng đời sống như vậy hơi tiêu cực chỉ lợi ích cho bản thân mình… Thật ra nếu sống tiêu cựcchỉ lợi ích cho mình làm sao mà giải thoát được! Nếu sự giải thoát khổ đau cho chúng sinh mà không dựa trên căn bản giải thoát tự thân thì chỉ xây dựng lâu đài trên cát. Tám điều tư niệm của Bậc Đại nhân trong A- hàm và Nikàya, đức Phật dạy cho Ngài Anuruddha và chúng Tỳ kheo, nhờ hành trì tám điều ấy mà Ngài Anuruddha đắc quả A La Hán, đại chúng Tỳ kheo cũng nhờ hành trì tám điều nầy mà thành tựu được bậc Đại nhân tức quả A La Hán hay đang hướng về quả A La Hán.

Qua trình bày trên, chúng ta đừng vội so sánhphê bình hình ảnh của vị Tỳ kheoTiểu thừa hay vị Bồ tátĐại thừa. Vì như vậy ta chưa hiểu hết vấn đề, chúng ta không thể coi pháp môn nào cao hơn pháp môn nào. Bởi lẽ, tất cả mọi pháp mônđức Phật dạy đều là phương tiện là chiếc bè để qua sông, dòng sông sanh tử. Mục đích chung và tối hậugiải thoát Niết bàn.

IV. GIỚI THIỆU NỘI DUNG KINH BÁT NIỆM CỦA A HÀM

1. Phần duyên khởi

Đức Phật đang ở tại Bà Kỳ Sấu trong Ngạc Sơn Bố Lâm, vườn Lộc Uyển. Bấy giờ Tôn giả A-na-luật-đà ở tại Chi Đề Sấu trong rừng Thủy Chử. Tôn giả đang thiền tư như sau: “Đạo do vô dục mà chứng đắc chứ không phải do dục. Đạo do tri túcchứng đắc chứ không phải do không nhàm chán. Đạo do viễn lychứng đắc chứ không phải do sự ưa tụ hội, sống ở chỗ tụ hội, hòa đồng nơi tụ hội. Đạo do tinh cầnchứng đắc chứ không do nơi biếng nhác. Đạo do chánh niệmchứng đắc chứ không do nơi tà niệm. Đạo do định ý mà chứng đắc chứ không do nơi loạn ý. Đạo do trí tuệchứng đắc chứ không phải do ngu si.” 

2. Phn ni dung

Đức Thế Tôn biết được nội dung tư duy của Tôn giả A-na-luật-đà, nên đức Thế Tôn đến gặp Tôn giả, tán thán bảy điều mà Tôn giả đang thiền tư, đồng thời Ngài dạy cho Tôn giả thêm điều thứ tám rằng: “Ngươi hãy thọ trì thêm suy niệm thứ tám của bậc Đại nhân là đạo do không hý luận chứ không phải do hý luận, thích hý luận, thực hành hý luậnchứng đắc.” 

Đức Thế Tôn khích lệ thêm rằng nếu Tôn giả thành tựu tám suy niệm của bậc Đại nhân thì có thể chứng đắc tứ thiềnthành tựu bốn tăng thượng tâm một cách dễ dàng, sống an lạc ngay trong hiện tại. Tôn giả sẽ mặc y phấn tảo mà chẳng khác nào mặc hoàng bào, ăn cơm khất thực mà chẳng khác nào cao lương mỹ vị, ngủ dưới gốc cây mà chẳng khác nào lầu son gác tía, nằm ngồi chỗ cỏ rơm chẳng khác nệm ấm chăn êm.

 Nếu Tôn giả thành tựu tám suy niệm của bậc Đại nhân thì ở phương Đông, Tây, Nam, Bắc hay bất cứ ở đâu Tôn giả vẫn được an lạc, không có các tai họa đau khổ.

Nếu Tôn giả thành tựu tám suy niệm của bậc Đại nhân thì thiện pháp ngày đêm được tăng trưởng không có dừng lại và suy thoái.

Nếu Tôn giả thành tựu tám suy niệm của bậc Đại nhân thì đối với hai quả sẽ được một: hoặc là được cứu cánh trí ngay trong hiện tại, hoặc nếu còn hữu dư thì được A- na- hàm.

Sau khi Đức Thế Tôn khích lệ Tôn giả A-na-luật-đà, Ngài trở về triệu tập chúng Tỳ kheo và thuyết tám điều suy niệm của bậc Đại nhân một cách chi tiết hơn:

Đạo do vô dục: Vị Tỳ kheo chứng đắc vô dục, tự biết mình chứng đắc vô dục, không làm cho kẻ khác biết mình vô dục. Đối với sự chứng đắc về tri túc, viễn ly, tinh cần, chánh niệm, định ý, trí tuệ và không hý luận cũng như vậy, gọi là đạo do vô dục.

Đạo do tri túc: Tỳ kheo thực hành tri túc, áo để che thân, ăn để nuôi thân, sàng tọa, dược phẩm cũng vậy.

Đạo do viễn ly: Tỳ kheo thực hành viễn ly thành tựu hai hạnh viễn ly- Viễn ly thân và viễn ly tâm.

Đạo do tinh cần: Tỳ kheo thực hành tinh cần đoạn trừ ác bất thiện pháp, tu các thiện pháp, thường tự khởi ý chuyên nhất, kiên cố, vì các gốc rễ thiện mà không hề nề hà khó nhọc.

Đạo do chánh niệm: Tỳ kheo quán nội thân như thân, nội thọ như thọ, nội tâm như tâm, nội pháp như pháp.

Đạo do định ý: Tỳ kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp cho đến chứng đắc tứ thiền thành tựuan trú.

Đạo do trí tuệ: Tỳ kheo tu hạnh trí tuệ quán pháp hưng suy, chứng đắc trí, thánh tuệ, minh đạt, phân biệt rõ ràng để dứt sạch khổ đau.

Đạo do không hý luận: Tỳ kheo tâm ý thường diệt hý luận, an lạc trú trong Vô dư Niết bàn, tâm thường lạc thú, hoan hỷ ý giải.

3. Phần kết luận:

Đức Thế Tôn dạy đại chúng xong, Ngài cho biết Tỳ kheo A-na-luật-đà thành tựu tám suy niệm của bậc Đại nhân, sau đó an cư tại Chi Đề Sấu trong rừng Thủy Chử. Vị Tỳ kheo ấy đã tự thân chứng đắc và an trú vô thượng phạm hạnh.

Đại chúng Tỳ kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.

V. VÀI LỜI GIẢI THÍCH

1. So sánh với Kinh Tăng Chi

Kinh Tăng Chi III, chương tám pháp phẩm Gia Chủ, mục Anuruddha thì nội dung kinh hoàn toàn giống nhau về đại thể và có khác nhau một vài chi tiết như: A- hàm nói vô dục, Tăng Chi là ít dục. Về tri túc, Tăng Chi giải thích đủ về “tứ vật dụng” của một Tỳ kheo gồm thực phẩm, y áo, sàng tòa, dược phẩm, còn A- hàm chỉ nói ăn và mặc. Về điều ưa sống viễn ly A- hàm giải thích là thân và tâm đều viễn ly, còn Tăng Chi đề cập đến trường hợp nhiều người đến thăm hay vấn đạo vị Tỳ kheo nhưng tâm vị ấy thuận về viễn ly, hướng về viễn ly, thuyết pháp liên hệ đến viễn ly, đây là một chi tiết rất hay. Về chánh niệm A- hàm đề cập đến Tứ niệm xứ, còn Tăng Chi nói một cách tổng quát rằng thành tựu niệm tuệ tối thắng, tức nhớ tùy niệm những điều đã làm, đã nói dù đã lâu. Về điều thứ tám không hý luận, Tăng Chi giải thích đoạn diệt hý luận, tâm được phấn chấn, tịnh tín, an trú hướng đến cứu cánh phạm hạnh, còn A- hàm giải thích tâm ý thường diệt hý luận, an lạc trú trong Vô dư Niết bàn.

Tóm lại sự khác biệt thuộc A- hàm và Nikàya là không đáng kể, chỉ có tính cách sử dụng ngôn ngữ mà thôi.

2. So sánh với Kinh Di Giáo

Kinh Di Giáo đưa ra tám công đức xuất thế như sau: ít ham muốn, biết đủ, siêu thoát (viễn ly), tinh tấn, chánh niệm, thiền định, trí tuệ và không hý luận. Tám công đức xuất thế nầy chính là nội dung Kinh Bát Niệm hay tám điều suy niệm của bậc Đại nhân, có thể nói Kinh Bát Niệmxuất xứ của tám công đức xuất thế trong Kinh Di Giáo. Trong tác phẩm dịch giải Kinh Di Giáo, H.T. Trí Quang viết: “Công đức xuất thế cũng gọi là công đức thượng nhân. Các bậc Thượng Nhân (Đại nhân) thường dùng tám công đức nầy để tự giác, tự soát, hầu nuôi lớn phương tiệnthành tựu cứu cánh”. “Tám công đức nầy liên hệ và tương đồng với mười pháp của Đại Bát Niết bàn”. Ngài Thế Thân trong tác phẩm Di Giáo Kinh luận đã chia tám pháp công đức này thành hai phần:

Phần một là bảy pháp đầu gọi là nuôi lớn phương tiện.

Phần hai là pháp thứ tám gọi là thành tựu cứu cánh.

 Như vậy pháp không hý luậný nghĩa rất lớn trong tám công đức.

Tám công đức xuất thế trong Kinh Di Giáo về tiêu đề và thứ tự hoàn toàn giống Kinh Bát Niệm chỉ có sự khác biệt chút ít về giải thích.

3. Vấn đề vô dục

Thông thường chúng ta hiểu vô dục là không tham dục, hoặc ít dục là ít sự ham muốn về các nhu cầu ăn, mặc, ngủ nghỉ, dược phẩm (đối với Tỳ kheo) hoặc ít ham muốn hưởng thụ dục lạc, giác quan như ngũ dục… Nhưng khi giải thích vô dục, đức Phật dạy vô dục trong nghĩa rất rộng mang tính triết học hơn, tức là những sở đắc, kết quả tu tập, những thành tựu trong quá trình quán chiếu, thiền định, những công hạnh đạt được đều không chấp thủ, không được khoe khoang hay khởi ước muốn mọi người biết đến mình, đến thành quả của mình. Đó gọi là vô dục. Đây là một định nghĩa về vô dục rất đặc biệt mà ở nơi khác không có. Qua định nghĩa này có thể làm tiêu chuẩn cho chúng ta về mẫu người tu tậpgiải thoát. Vị ấy không khoe khoang về các thành quả của mình, kể cả các thành quả về giới, về định, về tuệ và về giải thoát.

4. Vấn đề sống viễn ly 

Đây là vấn đề được coi trọng trong quá trình tu tập theo truyền thống Nguyên thủy, các Kinh cả A- hàm và Nikàya đều nói đến rất nhiều , cho nên thường bị các bộ phái cấp tiến phê phán cho rằng xa rời quần chúng, ích kỷ, làm cho Phật giáo không phổ cập mọi người. Thật ra đời sống viễn ly rất cần thiết cho hành giả tu tập đoạn trừ ái dục, nếu đang tu tập thiền định mà bị quấy rầy hoặc chi phối bởi ngoại cảnh thì công phu thiền định sẽ mất. Đức PhậtThánh tăng thời xưa dù sống viễn ly mà vẫn hoá độ chúng sanh, nhờ viễn ly mà “Tùy duyên” vẫn giữ được “bất biến”. Nếu đừng quá cường điệu, cực đoan thì đời sống viễn ly là tốt cho cả hai mặt tự lợilợi tha. Kinh Tăng Chi khi đề cập đến hạnh viễn ly cho rằng khi tiếp xúc với mọi người mọi giới hoặc làm việc mà tâm vẫn an trú, hướng về viễn ly hay nói cách khác nếu giữ tâm vững chãi không bị ngoại cảnh tác động thì dù gặp cảnh nào cũng không bị rối loạn, đó là ý nghĩa của viễn ly. Như vậy cũng có thể nói hạnh ly nhiễm của Kinh Bát Đại nhân Giác cũng có thể coi là tương đương hạnh viễn ly này. Điều thứ bảy giác ngộ đã nói lên xu hướngquyết tâm từ bỏ năm dục thực hành phạm hạnh ngay trong đời sống thế tục, đó là hạnh viễn ly đặc biệt.

5. Vấn đề không hý luận

Trong Kinh Bát Niệm có nói rõ, Tôn giả Anuruddha tư duy bảy pháp, đức Phật xuất hiện dạy Tôn giả tư niệm thêm pháp thứ tám là: “Đạo do từ không hý luận mà chứng đắc”. Vậy vấn đề không hý luận rất quan trọng và siêu việt nếu so với các vấn đề trên. Anuruddha thiền tư không phát hiện đạo lý này, mà nhờ đức Phật dạy, cho biết giá trị của không hý luận rất cao. Không hý luận là gì? Nghĩa đen là không nói chơi hay luận bàn một cách vô ích. Kinh Bát Niệm giảng rằng: “An lạc trú trong Vô dư Niết bàn, tâm thường lạc thú, hoan hỷ, ý giải”. H.T. Trí Quang nói rất rõ ý nghĩa của không hý luận: “Hý luận nghĩa đen là bàn chơi. Hý luận diễn biến từ sự bàn cãi chơi đùa đến sự thảo luận vô ích đến vấn đề đặt sai vấn đề, cuối cùng thì chính là sự thảo luận và đặt vấn đề thực chất đã không như thực. Chính cái nghĩa sau này cho thấy tất cả những cái gì thuộc phạm vi tư duy, mô tả thuộc “Tâm hành xứ” và “Ngôn ngữ đạo” đều là hý luận. Vậy không hý luận là “Bất tư nghì” là ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt, đó là cứu cánh hay tự tánh siêu thoát như ở đây nói, là giải thoát Niết bàn như Kinh Đại Niết bàn nói, là Không của Bát Nhã nói, là Trung đạo của Trung Luận nói: “Hý luận là ngôn ngữ của tư tưởng, thực chất của tư tưởngđối chiếu, diễn dịch: Có- không, cũng có- cũng không, không phải có- không phải không. Nhưng sự đối chiếu diễn dịch này không ngừng ở đây mà còn tiến xa hơn nữa... Tư tưởngngôn ngữ tư tưởng như vậy gọi là hý luận. Trí tuệ thuộc lãnh vực này gọi là trí tuệ” (dịch giải Kinh Di Giáo - Trí Quang).

Tóm lại vấn đề không hý luậnvấn đề cứu cánh siêu việt đúng như Kinh Bát Niệm giải thíchan lạc trú trong Vô dư Niết bàn, tâm thường lạc thú ý giải. Đó là cứu cánh giải thoát, là nội dung chứng đắc của một vị A La Hán.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11647)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11971)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11122)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11361)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12077)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12573)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10776)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17999)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9961)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10187)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12362)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15357)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11256)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12119)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15384)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12013)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12425)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11196)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12097)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10628)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12567)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13181)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14851)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12702)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16588)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19679)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13118)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12276)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11867)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13548)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11964)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11853)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11647)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12778)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14532)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12627)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15672)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13637)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12915)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9883)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18027)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11182)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9088)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12192)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13064)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10323)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12207)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15326)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16618)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12230)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11493)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14282)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19717)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14161)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24622)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10702)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant