Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7 – Thái độ xây dựng và tàn phá

06 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9006)
7 – Thái độ xây dựng và tàn phá

NGHIỆP BÁO
Giới Thiệu Tổng Quát
Tác giả: Alexander Berzin - Chuyển ngữTuệ Uyển

7 – THÁI ĐỘ XÂY DỰNG VÀ TÀN PHÁ

Bây giờ điều trở nên rất hấp dẫn khi chúng ta khảo sát những gì Phật giáo muốn nói qua xây dựng và tàn phá. Một cách tự nhiên có vài giải thích về điều này. Nhưng khi chúng ta thấy, chúng ta không thật sự định rõ bản tính tự nhiên của một hành động trong những dạng thức ảnh hưởng nó có trong ai đấy khác, bởi vì người biết điềutác động sẽ là: có rất nhiều những nhân tố khác sẽ bị tác động. Thế nên xây dựng và tàn phá phải hành động với một tình trạng của tâm thức, với điều mà chúng ta hành động. Nếu chúng ta hành động căn cứ trên tham lam, hay dính mắc, hay sân hận, hay ngu ngơ khờ khạo, thế thì nó là tàn phá. Trái lại, nếu chúng ta hành động trên căn bản không sân hận, không tham lam, không bị dính mắc, không ngốc ngếch si mê, thế thì nó là xây dựng. Một cách rõ ràng nếu hơn thế nữa, nếu nó căn cứ trên từ ái và bi mẫn, bố thí, v.v… nó cũng là xây dựng.

Cũng có những nhân tố khác. Rất thú vị để thẩm tra những nhân tố khác này mà nó làm một hành động xây dựng hay tàn phá. Một nhân tố là đạo đức tự giác, hay hạnh kiểm tự giác (tự tàm: thẹn với mình). Điều đó phải hoạt động với sự tự hình dung chúng ta và tự trọng của chúng ta. Nếu chúng ta không có sự tự trọng, thế thì chúng ta không quan tâm đến tác động thái độ của chúng ta đối với chính chúng ta. Nó là thái độ của “bất cứ điều gì.” Với loại tự trọng thấp, chúng ta hành động một cách tàn phá. Nói cách khác, nếu chúng ta nghĩ về chính mình trong những cách tích cực, nếu chúng ta tôn trọng chính mình như một người, thế thì chúng ta không hành động như một kẻ ngốc. Chúng ta sẽ không hành động một cách ngu dại, tàn nhẫn, bởi vì chúng ta không muốn tự hạ thấp mình để hành động trong cách đó – chúng ta có một ý niệm cao thượng hơn nhiều về chính mình, của những gì chúng ta có thể hành động. Đây là một nhân tố, chúng ta nói đến ở đây: hoặc là có một ý nghĩa đạo đức tự giác (tự tàm) hay không có ý nghĩa của đạo đức tự thẹn. Đây là một nhân tố vô cùng cốt yếu để quyết định hoặc là chúng ta hành động trong một cách xây dựng hay một cách tàn phá.

Một nhân tố khác quan tâm đến thái độ chúng ta phản chiếu trên những người khác. Chúng ta đang nói về điều gì? Nếu chúng ta hành động trong một cách khủng khiếp, nó phản chiếu thế nào trên gia đình chúng ta? Nó phản ánh thế nào trên quê hương chúng ta? Nếu chúng ta hành động bằng một cách dễ sợ, người ta sẽ nghĩ gì về người Mễ Tây Cơ? Bởi vì chúng ta có đủ lòng tôn trọng đối với gia đình, hội nhóm của chúng ta, hay bất cứ nó có thể là gì – tôn giáo, quốc gia, thành phố - với ý nghĩa quan tâm về tác động của thái độ chúng ta, với sự quan tâm về thái độ của chúng ta phản chiếu trên những người khác (quý tha: thẹn với người), nếu chúng ta có điều ấy, chúng ta sẽ kềm chế khỏi những hành vi tàn phá; nếu chúng ta không có nó, chúng ta sẽ hành động một cách tàn phá. Đây là một tuệ giác nội quán thậm thâm của Đạo Phật. Nhân tố cốt yếu là gì? Tự trọng, tự tàm và một ý nghĩa quý trọng cộng đồng của chúng ta.

Điều này cho chúng ta một tuệ giác nội quán to lớn vào trong một số nhân tố cần thiết được đem vào sự quan tâm trong những dạng thức đối phó với khủng bố. Nếu chúng ta tước đoạt một con ngườicộng đồng của họ với mọi ý nghĩa của tự trọng về họ, làm cho đời sống của họ thật sự khủng khiếp và suy nghĩ những thứ kinh khủng về họ, họ cảm thấy rằng không có gì quan trọng đối với những gì họ cố gắng hành động. Nếu họ không có ý thức về tự trọng hay giá trị cộng đồng của họ, thế thì tại sao không hành động một cách tàn phá? Họ cảm thấy rằng họ không có gì để mất. Chúng tôi nghĩ rằng điều này là một việc hổ trợ để nhớ lại trong dạng thức của việc chúng ta đối phó như thế nào với người khác, một cách đặc biệt trong những hoàn cảnh rắc rối trên thế giới. Điều quan trọng là đừng bao giờ tước đoạt ý thức tự trọng của ai đấy hay một cảm giác chân giá trị cộng đồng của họ.

Cũng có một vài nhân tố tinh thần liên quan ở đây với điều làm nên một hành động tàn phá hay làm nên một việc làm xây dựng. Nó cũng là những thứ giống như thừa nhận sự thực rằng cung cách chúng ta hành động và xử sự đối với người khác sẽ ảnh hưởng đến họ. Điều này ám chỉ đến việc có một ý nghĩa của quan tâm hay chăm sóc – Chúng tôi gọi nó là “thái độ thận trọng.” Nhưng đôi khi chúng ta rất ngu ngơ, chúng ta nghĩ rằng chúng ta nói bất cứ điều gì đến người kia và chúng chẳng can hệ gì. Chúng ta không thật sự quan tâm đến cảm giác của người khác một cách nghiêm chỉnh. Thế thì chúng ta thiếu vắng một thái độ thận trọng.

Nếu chúng ta hành động với những loại thái độ tinh thần này – tham lam, sân hận, không có ý nghĩa tự trọng, không quan tâm đối với điều gì chúng ta thật sự phản chiếu trên người khác, không cẩn trọng, không lưu ý một cách nghiêm chỉnh rằng những gì chúng ta hành động sẽ có một ảnh hưởng đến những người khác và cũng có một tác động đến chính chúng ta – kết quả của điều ấy là gì? Bất hạnh, buồn phiền. Nổi buồn phiền này, nó là một sự trừng phạt, thế ấy.

Chúng ta cần phải suy nghĩ một cách hoàn toàn sâu sắc thật sự về điều này. Có phải thể trạng tâm thức với tất cả những nhân tố tiêu cực này thật sự là một tình trạng vui vẻ hạnh phúc của tâm tư, và có phải nó thật sự phát sinh một kinh nghiệm hạnh phúc trong chúng ta? Hay nó chỉ có thể sinh ra bất hạnh buồn phiền? Nếu chúng ta càng nghĩ về nó hơn nữa, nó thật sự làm nên ý nghĩa rằng tình trạng ấy của tâm tư, thể trạng ấy của tâm thức, sẽ đưa đến kết quả trong kinh nghiệm bất hạnh buồn phiền, và nếu chúng ta có chó một thể trạng đối ngược lại của tâm thức, không có tham lam, sân hận, và tất cả những điều khác này, nó sẽ sản sinh hạnh phúc . Do thế, chúng ta có những thái độ đặc trưng phổ biến này – xây dựng và tàn phá – và chúng sẽ đưa đến kết quả trong những kinh nghiệm hạnh phúc hay bất hạnh.

Thêm nữa, sau đó chúng ta có những loại hành động đặc thù mà chúng ta hành động: la lối vào ai đấy, hay thể hiện sự ân cần đến ai đấy, và v.v…, và những loại này cũng có những ảnh hưởng trong hình thức của những khuynh hướng để lập lại thái độ hay những khuynh hướng ấy để đi đến những tình cảnh mà trong ấy những người khác hành động trong cách nào đấy đến chúng ta.

Một kết quả khác của thái độ nghiệp báo của chúng ta – nhưng không cần thiết phải đi vào những chi tiết to lớn ở đây – liên hệ đến loại tái sinh nào mà chúng ta có: chúng ta sẽ tái sinh với một thân thểtâm thức của một con chó, một con gián, hay của một con người. Loại thân thểtâm thứcchúng ta sẽ có là thế nào như phạm vi cho những kinh nghiệm nào đấy xảy ra đến chúng ta và sự hành động của chúng ta trong một cung cách nào đấy. Có nhiều chi tiết khác ở đây, những chúng tôi muốn chỉ bao quát trong thuyết trình giới thiệu này, những nguyên tắc phổ biến nhất.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29908)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27193)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21787)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22254)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23631)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20458)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20066)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21958)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24776)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19017)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24793)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31011)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24010)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27785)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26553)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21364)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23247)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38177)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18816)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18440)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20004)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19061)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23196)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23904)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22835)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22944)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29607)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20654)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18732)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15857)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18877)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19706)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20177)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19968)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18141)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22983)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34202)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16442)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16942)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39294)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26117)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20127)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18878)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24094)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29164)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22923)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30986)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21037)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26880)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20695)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26278)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23353)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19837)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24700)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30055)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20243)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20431)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15163)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15847)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23925)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant