Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12 - Hỏi & đáp

06 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9064)
12 - Hỏi & đáp

NGHIỆP BÁO
Giới Thiệu Tổng Quát
Tác giả: Alexander Berzin - Chuyển ngữTuệ Uyển

12 – HỎI ĐÁP

HỎI: Trong phạm vi này, tội lỗi không có trong tấm ảnh? Không có việc gì với tội lỗi ở đây, có phải không?

ĐÁP: Đúng thế. Sự giải thích của Đạo Phật về nghiệp báo không liên can gì đến tội lỗi. Tội lỗi là căn cứ trên sự suy nghĩ trong những hình thức của một cái “tôi” rất mạnh mẽ vững chắc như một thực thể tồn tại riêng biệt và những gì tôi đã làm như một thực thể riêng lẻ khác, giống như hai quả bóng bàn, hay điều gì ấy giống như thế. Và sau đó chúng ta tin tưởng rằng thực thể cái “tôi” là quá tệthực thể “những gì tôi đã làm” cũng là tệ hại. Vì thế cũng có một sự phán đoán của hai thực thể dường như vững chắc và rồi thì không thể buông xả được – đó là tội lỗi. Giống như chẳng bao giờ vất rác ra khỏi nhà chúng ta, mà chỉ giữ nó bên trong và nói nó ghê tởm như thế nào, nó hôi thối như thế nào, nó nhơ bẩn như thế nào, và chẳng bao giờ buông bỏ.

HỎI: Nghe có vẻ rất rõ ràng và rất hơp lý (logic), và tôi có thể hiểu toàn bộ hệ thống, và làm thể nào giải thoát khỏi sự mê muội, và sự những khuynh hướng thúc đẩy cùng mọi thứ. Nhưng tôi nghĩ rằng thấu hiểu nó chưa đủ để giải thoát ngay bây giờ đối với những kinh nghiệm hay sự thúc đẩy hành động một cách bắt buộc.

ĐÁP: Đúng thế. Vâng, đấy là tại sao trước tiên chúng ta cần thực nghiệm đạo đức tự giác (tự tàm). Hãy nhớ là, chúng ta đề cập rằng có một khoảng cách nhỏ giữa điều khi tôi cảm thấy giống như muốn nói, “Ô thật là một bộ đồ xấu xí mà bạn mặc hôm nay,” và khi tôi thật sự nói nó. Nếu chúng ta có thể nắm bắt khoảng không gian ấy, thế thì chúng ta có khả năng để quyết định những gì sẽ ảnh hưởng nếu tôi nói với người ấy rằng người ấy đang mặc một bộ đồ xấu xí. Và nếu chúng ta thấy rằng điều ấy sẽ không là sản phẩm tốt đẹp chúng ta không phát hành nó. Đấy là nơi chúng ta bắt đầu – với nguyên tắc đạo đức và sự tự kiểm soát.
Cũng thế, chúng ta có thể thẩm tra cảm xúc nào tôi đang cảm nhận khi tôi muốn làm việc gì ấy? Tại sao tôi ao ước làm việc gì ấy căn cứ trên một cảm xúc phiền não, chẳng hạn như tham lam? Có phải nó căn cứ trên sân hận; có phải nó căn cứ trên si mê? Tôi có nghĩ rằng nếu nói bộ đồ của bạn là xấu xí sẽ không có bất cứ ảnh hưởng nào đối với bạn? Hay có phải tôi ao ước làm việc gì đấy căn cứ trên sự tử tế ân cần, và đây là những việc tích cực hơn? Đây là tại sao sự định nghĩa của một cảm xúc phiền não hay một thái độ quấy rầy là rất hữu ích: nó một tình trạng của tâm thức, là thứ, mà khi nó sinh khởi, nó làm cho chúng ta mất sự an bình của tâm thức và mất sự tự kiểm soát.
Chúng ta có thể nói rằng khi chúng ta mất sự an bình của tâm thức: tim chúng ta đập hơi nhanh hơn; và chúng ta cảm thấy hơi khó chịu. Vì thế, chúng ta cố gắng chú ý, thí dụ, những việc vi tế, như có phải tôi đang nói điều gì đấy do tự hào? Thí dụ, ai đấy nói, “Tôi không hiểu điều đó,” và bạn nói, “Ô, nhưng tôi hiểu!” Quý vị sẽ chú ý một sự hơi bực bội, một chút tự hào, một sự kiêu hãnh nào đấy, và vì thế đây là những gì chúng ta đề phòng.

HỎI: Tôi có hơi không hiểu. Tôi nghĩ, giáo sư đề cập rằng có hai cảm xúc không ngừng đây là hạnh phúcbất hạnh, những sự giao động lên xuống này. Có phải giáo sư đang nói rằng một trong hai điều này la tham dục, còn thứ kia là gì?

ĐÁP: Những gì tôi đang giải thích là hai nhân tố mà chúng khởi động những khuynh hướng nghiệp báo – những điều này đến từ những giáo lý mười hai nhân duyên. Một thứ là tham dục (ái - thứ 8) và thứ kia – tôi đang làm cho đơn giản – thứ kia đặc biệt gọi là thái độ hay cảm xúc đạt được tức là chấp trước (thủ - thứ 9), và nó là một danh sách khoảng năm khả năng khác nhau. Đây là những gì sẽ đạt đến một kết quả, và vì thế điều nổi bật nhất là xác định rõ một cái “tôi” vững chắc với nó chúng ta đang trải qua, với những gì đang diễn tiến.

HỎI: Có phải sự xác định cái “tôi” vững chắc trong mối quan hệ đến điều gì đấy? Rõ ràng có sự rối rắm ở đây, và rằng chúng ta phải chăm sóc nó và thoát khỏi sự rối rắm mù mờ. Nhưng điều gì chúng ta thật sự đang mù mờ và điều chúng ta đang rối rắm với nó?

ĐÁP:  Đấy không phải là một câu hỏi dễ dàng để trả lời trong một cách đơn giảnChúng ta đang mê mờ cái “tôi” thật sự tồn tại, cái “tôi” quy ước, với cái “tôi” sai lầm không thật sự hiện hữu. Nhưng gì chúng ta đang làm là đang tưởng tượng cái “tôi” hiện nay, là thật sự tồn tại hiện hữu trong một cách không thể xãy ra được nào đấy, nó sự thổi phồng. Nó đang thêm vào điều gì đấy không có ở đó. Thí dụ: tôi vui vẻ hay tôi không vui vẻ. Không phải là bạn không vui vẻ; tôi không vui vẻ. Khi có một kinh nghiệm hạnh phúc hay bất hạnh, chúng ta liên hệ nó trong những dạng thức của tôi hạnh phúc. Không phải rằng bạn vui vẻ và ai đấy khác vui vẻ - tôi vui vẻ. Cái “tôi” (‘I’ hay ‘me’) là cái “tôi” quy ước, là điều thật sự hiện hữu.

Hãy để chúng tôi dùng một thí dụ cho cái “tôi” quy ước này. Giả sử chúng ta xem một bộ phim và hãy nói bộ phim là “Cuốn Theo Chiều Gió”. Trong ấy, có một cảnh vui, rồi một cảnh không vui, và rồi một cảnh vui khác. À…,điều gì đang xãy ra ở đây? Màn hạnh phúc là một cảnh trong phim “Cuốn Theo Chiều Gió” và mà không vui là một cảnh khác của bộ phim. “Cuốn Theo Chiều Gió” là chúng ta đã đặt tên một cách quy ước cho toàn thể các màn ấy, tất cả các cảnh ấy, cả vui vẻ hạnh phúc và buồn đau bất hạnh. “Cuốn Theo Chiều Gió”, tuy thế, chỉ là tiêu đề, chỉ là một cái tên. Nhưng khi chúng ta nói về “Cuốn Theo Chiều Gió”, chúng ta không chỉ nói về tựa đề. Chúng ta đang nói về bộ phim thật sự - mà tựa đề liên hệ đến. Đấylà bộ phim hiện hữu một cách quy ước: nó tồn tại. Bộ phim là điều gì đấy tách biệt khỏi mỗi màn của những cảnh ấy – một bộ phim tách rời và độc lập với những cảnh ấy sẽ là một bộ phim không thật. Nó không tồn tại. Một bộ phim tồn tại một cách quy ước đơn thuần là những gì có thể đặt tên hay quy cho, chúng ta nói, trên căn bản của những màn, những cảnh.

Tương tự thế, chúng ta có những thời khắc hạnh phúc trong đời sống, chúng ta có những lúc không vui trong cuộc đời và v.v…, và chúng ta liên hệ như thế nào đến tất cả những điều ấy? Chúng ta liên hệ tới nó như cái “tôi” – cái “tôi” quy ước, là điều thật sự hiện hữu: nó không phải là bạn, nó là “tôi”. Tương tự thế, bộ phim là “Cuốn Theo Chiều Gió”, không phải là “Chiến Tranh Các Vì Sao”. Nhưng không có cái “tôi” tách biệt từ những thời khắc của kinh nghiệm hạnh phúcbất hạnh và cái “tôi” là điều đang kinh nghiệm những thời khắc ấy. Đó sẽ là cái “tôi” không thật, một cái “tôi” không thật sự tồn tại. Và cái “tôi” không chỉ là một từ ngữ; vì thế cái “tôi” chỉ đơn thuần là những gì mà từ ngữ ấy đang liên hệ đến trên căn bản của tất cả những thời khắc trãi qua của một đời sống.

Sự mù mờ, thế thì, sẽ là để nghĩ rằng có một cái “tôi” riêng biệt nào đấy hiện diện trong thân thể này, cư ngụ trong đấy, nối kết với nó bằng cách nào đấy, nhấn những nút bấm, và bây giờ cái “tôi” ấy là đang trải qua cái đau trên bàn chân của tôi, và tôi rất đau khổ và tôi không thích điều ấy. Nó giống như có một cái “tôi” tách biệt với toàn bộ những kinh nghiệm bên trong cái vật xa lạ ấy được gọi là thân thể. Sau đó, trên căn bản sự mê mờ rối rắm về cái “tôi” riêng biệt – cái “tôi” không thật này – với cái “tôi” quy ước và đồng hóa nó với cái “tôi” không thật, chúng ta cảm nhận, với tham dục (ái), “tôi pahir tách biệt khỏi sự buồn phiền này, từ sự đớn đau này, từ sự bất hạnh mà tôi trãi qua với cái đau của thân thể vật lý.” Dĩ nhiên, khi chúng ta không có nhận thức sai lầm ấy về cái “tôi” vững chắc, điều ấy không có nghĩa là rằng chúng ta chỉ ngồi đấy và tiếp tục có cái đớn đau. Nếu bàn chân chúng ta ở trên ngọn lửa, dĩ nhiên, chúng ta đưa bàn chân chúng ta ra khỏi lửa, nhưng khái niệm cái “tôi” ở phía sau là hoàn toàn khác biệt. Không có gì sợ hãi.

Nhưng khái niệm của một cái “tôi” không thật đối kháng với một cái “tôi” quy ước là rất phức tạpcấp tiến cao độ. Vì thế, hãy rời nó bây giờ. Hãy chấm dứt ở đây, thay vào đấy, cho buổi tối hôm nay với một lời hồi hướngChúng ta quán niệm: bất cứ điều hiểu biết nào, bất cứ năng lực tích cực nào đã đến từ điều này, nguyện cầu tất cả được thâm nhập càng sâu sắc hơn hơn nữa, phát triển càng mạnh mẽ hơn hơn nữa, và hành động như nguyên nhân để đạt đến giác ngộ vì lợi ích cho tất cả.

Introductory Lecture on Karma
Alexander Berzin 
Xalapa, Mexico, May 2, 2006
Tuệ Uyển chuyển ngữ
21-03-2010
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/sutra/level2_



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29908)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27190)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21780)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22247)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23622)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20437)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20060)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21954)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24776)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19015)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24789)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31004)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24010)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27783)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26548)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21362)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23243)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38166)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18811)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20000)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19059)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23189)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23903)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22834)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22942)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29603)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20653)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18729)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15856)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18871)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19701)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20174)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19965)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18141)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22980)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34201)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16440)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16941)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39282)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26113)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20122)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18868)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24089)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29163)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22916)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30982)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21027)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26874)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20692)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26276)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23349)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19837)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24699)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30054)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20242)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20422)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15163)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15846)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23923)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant