Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 1: Lời giới thiệu

09 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9359)
Chương 1: Lời giới thiệu

Tủ Sách Đạo Phật Ngày Nay
GIỚI THIỆU ĐẠO PHẬT
Peter Harvey - Mỹ Thanh dịch - Nhà Xuất Bản Hải Phòng 2008

LỜI GIỚI THIỆU

Như tên gọi của nó, Giới Thiệu Đạo Phật của giáo sư Peter Harvey là bức tranh toàn diện về minh triết của Phật giáo. Bức tranh này phác họa bối cảnh xã hội Ấn Độtôn giáo thời đức Phật, qua đó trình bày những nét đặc thù của giáo pháp Phật.

Các học thuyết căn bản của Phật giáo như “Tứ Diệu Đế”, “Nghiệp và tái sinh”, “Thiền định và Trí tuệ” được tác giả phác họa dưới gốc độ vũ trụ luận, nhân sinh quan và đạo đức quan.

Nếu nghiệp được xem là các hành động chủ ý hoặc vô tình thì phản ứng của nó chính là kết quả đối với những cái tốt và hậu quả đối với những cái xấu. Như định luật Vạn vật hấp dẫn, hành vi của con người bao gồm: tư duy, lời nóiviệc làm có lực hút với thiên hướng kết quả tốt hoặc xấu. Tập hợp các chủng loại nghiệp, từ khi có sự sống cho đến lúc qua đời, chính là sự kết nối tái sinh. Nghiệp chính là lực hút của sinh tử. Phân tích mặt tiêu cực của nghiệp là nghệ thuật nhận diện khổ đau và gốc rễ của nó. Khi năng lực nhận diện được nhân lên thành bản lĩnh, thì xiếng xích của nghiệp sẽ được chặt đứt, lúc ấy nguồn năng lực an lạc tĩnh tại ở mức độ cao nhất “Niết Bàn” sẽ có mặt. Để làm được việc đó, con đường không thể thiếu mà các hành giả phải đi qua chính là đạo đức, thiền địnhtrí tuệ.
Lịch sử phát triển của Phật giáo bắt đầu từ lần vận chuyển bánh xe chánh pháp đầu tiên tại vườn Nai. Ba ngôi tâm linh “Phật, Pháp, Tăng” được hình thành. Đời sống đạo đức được thiết lập. Con đường giải thoát rộng mở và đón chào mọi người.

Tác giả đã phác họa lịch sử phát triển của đạo Phật Ấn Độ sau thời Phật nhập diện với đỉnh cao nhất là triều đại “Gupta”. Chủ trương và chính sách truyền bá chánh pháp của đại đế Asoka là bài học về nghệ thuật và kết quả hoằng pháp mà các nhà hoằng pháp hiện đại không thể không tham khảo. Nhờ vào chính sách truyền bá đó, đạo Phật không chỉ là đặc sản tâm linh của Ấn Độ, đã nhanh chóng trở thành ánh sáng của Á châu.

Theo tác giả, truyền thống tâm linh của Bắc tông (thường ngộ nhậnĐại thừa) và truyền thống tâm linh Nam tông (thường ngộ nhậnTiểu thừa) chính là hai con đường tiếp biến văn hóa, một bên là thích ứng để phát triển, một bên là duy trì để phát triển. Duy trìthích ứng là hai phương diện của phát triển trong quá trình tiếp biến văn hoá của đạo Phật, nhờ đó ảnh hưởng của Phật giáo đã tác động tích cực đến các phương diện và ngành nghề trong xã hội nơi đạo Phật có mặt như những thực tại văn hóa tâm linh. Kho tàng văn chương và minh triết Phật giáo đã làm phong phú thêm văn học và triết lý của các quốc gia. Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc qua lịch sử đồng hành của Phật giáo đã góp phần giữ vững hồn thiêng sông núi. Kiến trúc nghệ thuật ở các quốc gia có mặt đạo Phật đều ít nhiều chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các giá trị văn hóa của đạo Phật.

Nền triết học Đại thừa với điểm nổi bật của văn học Bát Nhã, Hoa Nghiêm, Pháp HoaNiết Bàn là cả kho tàng triết lý nhập thế, đáp ứng nhu cầu tri thứctriết học của tầng lớp tinh hoa xã hội. Các trường phái chính của đại thừa như Trung QuánDu Già đã được thảo luận cặn kẻ trong tác phẩm. Nếu triết học “tánh không” như nghệ thuật phá chấp tất cả những gì gọi là cái tôi thường hằng hay đoạn diệt, cá nhân hay xã hội, quốc gia hay liên minh quốc gia, thì học thuyết Như Lai tàng của triết học Du Già chính là nghệ thuật nhận diện tiềm năng giác ngộ trong tình huống của chúng sanh hay người phàm. Nhận diện được thai tạng Như Lai, thì con người có khả năng vượt qua mặc cảm tự ti của người phàm, từ đó tinh tấn đạt được những gì chưa đạt. Trong thành quả mà không bị vướng kẹt, trong thăng hoa mà không bị cái tôi chi phối, hành giả đang đạt được trí tuệtánh không vốn có khả năng tháo dở mọi chấp trước.

Bên cạnh các học thuyết và triết lý của các trường phái Phật giáo, tác giả đã phân tích phương diện sùng báitín ngưỡng vốn chịu ảnh hưởng sâu rộng từ văn hóa bản địa. Các hoạt động văn hóa như tụng kinh, lễ Phật, cúng kiến, thờ phụng hình tượng đã có chiều dày lịch sử từ khi đức Phật qua đời. Các lễ hội văn hóa tín ngưỡng Bồ Tát Quan Âm như đức mẹ từ bi, Phật A Di Đà như bậc đại giácTây phương cứu thế, Phật Dược Sư như thầy thuốc trị bệnh thân tâm v.v… đã được phân tích từ gốc độ tiếp biến văn hóa.

Theo tác giả, căn bản nhất của đời sống tâm linh Phật giáo chính là đạo đức. Đạo đức có nhiều gốc độ: thuận hợp các quy chuẩn luật pháp, rèn luyện tâm ý và nuôi dưỡng động cơ tích cực cho mọi hành động và mục đích vốn được xem là cẩm nang hành xử của người Phật tử. Nếu đạo đức của người tại gia được đặt trên nền tảng thuận Hiến, hợp pháp nhằm xây dựng các hình thái bình đẳng và công bằng xã hội thì đạo đức xuất gia nhấn mạnh đến động cơ thái độ của tâm ý, nhằm chuyển hóa đến tận gốc rễ nỗi khổ niềm đau tiềm ẩn. Hai loại hình đạo đức vừa nêu đều có giá trị xây dựng nền tảng đạo đức xã hội.

Tinh hoa của triết lý đạo Phật, theo tác giả là sự thực tập thiền định để phát huy trí tuệ. Các phương pháp thiền định truyền thống như bốn lĩnh vực quán niệm, mười sáu hơi thở với trọng tâm chánh niệm và tỉnh thức đã được phân tích dưới gốc độ tâm lý trị liệu. Các phương pháp thiền định phổ biến trong đạo Phật như chỉ và quán và các chi phái thiền phổ biến ở Trung Hoa như Thoại ĐầuCông Án được xem là những phương tiện để tỏ ngộ được chân tâm thường trú, thể tính tịnh minh. Phương pháp thiền truyền thống và phát triển tuy có khác nhưng mục đích trị liệu khổ đau và hướng đến niết bàn thì cả hai thống nhất. Phương pháp hành trì của Tịnh độ tôngquán tưởng của Mật tông nên hiểu như những phương tiện hữu hiệu trong việc chuyển hóa thân tâm. Thiền, Mật và Tịnh là ba trong phương pháp tu tập nhưng là một trong cứu cánh.

Sự tiếp nối truyền thống và những đa dạng hiện tại từ cái nhìn phân tích của tác giả là sự tương dung và bổ sung. Đọc tác phẩm “Giới thiệu đạo Phật”, ngoài tấm bản đồ toàn diện như vừa nêu, người đọc tự mình khám phá những chân lý xâu xa nhưng bình dị, những lời kinh triết lý nhưng gần gũi, những chân lý thâm sâu nhưng dễ hành, vừa là tinh hoa của đạo Phật nhưng cũng là mục đích của đời sống hạnh phúc. Ngôn từ trong bản dịch mặc dù mới và đôi lúc có phần xa lạ với các thuật ngữ Phật học Hán Việt truyền thống, chẳng những không làm chúng ta khó hiểu bản dịch, ngược lại giúp cho người đọc làm quen các khái niệm mới tương đương với các thuật ngữ truyền thống. Trên tinh thần này, tôi trân trọng kính giới thiệu tác phẩm đến quý độc giả.

Giác Ngộ, ngày 13/05/2009

Thích Nhật Từ 
Phó viện trưởng HVPGVN tại TP.HCM

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31320)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26213)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27506)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27877)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26693)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31192)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20247)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22886)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30021)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21544)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20226)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22629)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20736)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30275)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28757)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34698)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44196)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35489)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22520)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21344)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20661)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24746)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37882)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19016)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19306)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21784)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20853)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29502)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35086)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28799)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32589)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26200)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28910)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43116)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34913)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43889)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37855)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21315)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43009)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48995)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39814)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53770)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36808)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40783)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49720)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47294)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27677)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27013)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27213)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24063)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20834)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34299)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22448)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25089)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25820)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22934)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22460)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21738)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23310)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21154)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant