Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 9: Văn chương Bát nhã đáo bỉ ngạn

09 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8692)
Chương 9: Văn chương Bát nhã đáo bỉ ngạn

Tủ Sách Đạo Phật Ngày Nay
GIỚI THIỆU ĐẠO PHẬT
Peter Harvey - Mỹ Thanh dịch - Nhà Xuất Bản Hải Phòng 2008

Chương 9
VĂN CHƯƠNG BÁT NHÃ

ĐÁO BỈ NGẠN

(The perfection of wisdom literature) 

và trường Trung Quán (Madhyamaka)

Nguồn tài liệu và các tác giả

Trường Trung Quán ((Madhyamaka) cũng được biết đến dưới tên Không Tông (Śūnyatā-vāda), bài giảng về “sự trống không”, vì nhận định chánh của trường phái nầy là “hư không”, cũng là trọng tâm của Bát Nhã Ba La Mật (Prajñā-pāramitā), hoặc Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (‘The Perfection of Wisdom’ Sūtras). Trong những kinh Đại Thừa, kinh nầy là kinh xưa nhất từ trước tới nay được tụng đọc, Kinh Bát Thiên Bát Nhã Ba La Mật (Aṣṭasāhasrikā), hoặc “8.000 câu” Kinh Bát Nhã. Bắt nguồn vào những thế kỷ đầu trước TC và sau Công nguyên, nội dung của kinh nầy được làm cho dài thêm, vào khoảng thời gian năm 300 trước Công nguyên, tạo thành những tác phẩm có khoảng 100.000 câu. Trong thế kỷ sau đó, hai bài văn ngắn được sáng tácKim Cương Bát Nhã (Vajracchedikā), hoặc “Kinh Kim Cang”, và một trang Nhục đoàn tâm (Hṛdaya), hoặc “Tâm” (Heart), Kinh Bát Nhã (Perfection of Wisdom Sūtras). Trường Trung Quán (Madhyamaka) được thành lập bởi một hội viên của Trung Quán Tông (Mādhyamika), ngài Long Thọ (Nāgārjuna) (vào khoảng 150-250TTHT), một tu sĩ miền Nam Ấn, một triết gia và là một người huyền bí. Những tài liệu về sự thành lập trường nầy nằm trong Trung Quán Luận Tụng Căn Bản (Mūla-madhyamaka-kārikā), “Những câu thơ chủ yếu về Trung Đạo”. Đây chứng tỏ cái nhìn của ngài Long Thọ (Nāgārjuna) về “Trung Đạo” chân thật của Đức Phật (xem tr.69), tìm cách thuyết phục những ai không chấp nhận kinh điển Đại thừa và một sự am hiểu đúng về kinh điển trước đó chắc chắn sẽ đưa đến việc nhận thấy mọi vật đều là “không”. Có rất nhiều tác phẩm nói về ngài Long Thọ (Nāgārjuna) dù phần đông các tác giả sau nầy cũng cùng một tên. Quyển Hồi Tránh Luận (Vigraha-vyāvartani) có lẽ là quyển kinh đáng được tín nhiệm nhất, tìm cách để khắc phục những chỉ trích đối với ý tưởng của ông. Trong khi nhận thức của ông dường như gần với Kinh Bát Nhã, nhưng ông không trích dẫn những câu trong kinh, hoặc nói đến “Đại Thừa” (Mahāyāna) hoặc “Bồ Tát” (Bodhisattva) trong Trung Quán Luận Tụng Căn Bản (Madhyamaka-kārikā). Điều nầy được chấp nối rõ ràng, và nhắc đến trong các tác phẩm khác của ông, nếu xác thực, hoặc của các học trò chánh của ông, Āryadevavà Nāga. Trong thế kỷ thứ năm, Buddhapālita và rồi đến Bhāvaviveka xây dựng dần sự nổi tiếng của trường. Bhāvaviveka cải tiến những phương cáchtính cách hợp lývào khoảng năm 500 trước Công nguyên, phát triển một giải thích mới về ý tưởng của Long Thọ (Nāgārjuna), và từ đó thành hình trường Độc Lập biện chứng phái-Đại thừa (Svātantrika-Madhyamaka). Candrakīrti (cuối thế kỷ thứ 6) đã tranh luận những giải thích của trường phái nầy, và dựa vào công trình của Buddhapālita đã thành lập trường Cụ Duyên Tông- Đại thừa (Prāsangika-Madhyamaka) như là một phát biểu của phái nầy. Những ý tưởng của Candrakīrti được nói đến trong các tác phẩm lời bình luận của ông về Trung Quán Luận Tụng (Madhyamaka-kārikā), Minh cú luận (Prasannapadā), hoặc “phát biểu rõ ràng”. Vào thế kỷ thứ tám, Śāntarakṣita và học trò là Kamalasīka đã thêm vào một số ý tưởng Duy thức tông (Yogācāra) trong những kinh Độc Lập biện chứng phái-Đại thừa (Svātantrika-Madhyamaka), do đó tạo thành trường phái Duy thức tông-Đại thừa (Yogācāra-Madhyamaka). 

Định hướng của phái Không Tông (Śūnyatāvādin)

Văn chương Bát Nhã ca ngợi trí tuệ (prajñā) là Ba-la-mật (pāramitā), nghĩa đúng là “đi xa hơn” (đến Niết Bàn), và những sự “hoàn thiện” khác liên quan đến con đường của Bồ Tát (Bodhisattva-path). Trong lúc kinh nầy và các tác phẩm của Long Thọ (Nāgārjuna) rõ ràng chỉ dành cho người có học thức, họ nhấn mạnh rằng Đức Phật từ chối tất cả những “nhận thức” có tính cách suy đoán, cho rằng sự phân tách những ý tưởng của Thắng Pháp (Abhidharma) có thể đưa đến một dạng tham đắm tri thức rất tinh tế: ý tưởng nầy cho rằng bằng một trong những nhận thức được sắp đặt sẵn, một người cho rằng mình đã “nắm giữ” được bản chất thật của thực tại. Sau nầy trong nhà Thiền, một sự cố gắng như vậy được xem như cố gắng bắt một con cá trê trơn tuột với một cái bầu khó cầm giữ. Văn chương mới cũng cho thấy rằng Thắng Pháp tương phản với Niết Bàn với những pháp tạo thành một “con người” bị điều kiện hóa, mà nền tảng nằm dưới dạng một bản chất tinh tếtìm kiếm phần tâm linh cho chính mình: cái ước muốn đạt được Niết Bàn của một người, muốn có cái mà ta chưa có. Những bài văn mới nhấn mạnh rằng mục đích phải đạt được là “từ bỏ” tất cả, như vậy sản xuất ra một ý tưởngchuyển hóa tất cả những gì có liên quan đến đối tượng của tinh thần và các giác quan (Vc.sec.10c; cf.p.63). 

Pháp Không (Empty dharma) và Duyên khởi (Conditioned Arising)
Trí tuệ Bát nhã (Perfection of Wisdom) chỉ trích ý tưởng của Thắng Pháp (Abhidharma), nhất là đối với nhóm Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvāstivādin), cho rằng nó không đi xa hơn để thấy rằng tất cả là vô ngã (Skt.anātman), hoặc “không” (śūnya). Đây hiểu về “sự vô ngã của con người” (pudgala-nairātmya), sự vắng mặt của một cái ngã có thực chất thường hằng nơi một người. Tuy nhiên, nó phân tách “con người” với các pháp (dharmas), mỗi pháp với “tự tính” cố hữu của nó, vì thế cho thấy rằng họ đã không hiểu gì về sự vô ngã của các pháp (dharma-nairātmya). Nghĩa là, thấy pháp như một khối kiến trúc của thực tại, với bản chất tự nhiên cố hữu của nó, và như vậy tin rằng nó có thể bị nhận diện mà không cần sự tham khảo đối với các pháp mà nó đang nương tựa. Nghĩa là nó có thể hiện hữu một cách độc lập, và làm cho nó thành một cái ngã thực sự. Như vậy sự phân tách pháp được phát triển như là một cách để cắt bớt sự tham đắm bản ngã, và được xem là không đạt được mục đích. Bài phê bình của ngài Long Thọ (Nāgārjuna), về ý nghĩa của “tự tính” (Mk.ch.15) tranh luận rằng tất cả những gì xuất hiện theo những điều kiện, cũng như phần đông những hiện tượng, thì không có tự tính cố hữu, bởi vì nó dựa vào những điều kiện để mà có mặt. Hơn nữa, nếu không có gì có tự tính, thì có thể là không có gì với một “bản chất khác” (para-bhāva), nghĩa là một vật gì đó nương tựa một vật khác có tự tính để mà có thể hiện hữu. Thêm vào đó, nếu khôngtự tính hoặc một bản chất tự nhiên khác, thì không thể nào có một vật gì là chân thật, hiện hữu với thực chất của nó (bhāva). Nếu như không có cái gì thật sự hiện hữu, thì không thể không có cái “không sinh tồn” (abhāva); vì ngài Long Thọ (Nāgārjuna) cho rằng đây là một từ tương quan đến một hiện hữu thật sự đã không còn hiện hữu. Như ngài Long Thọ (Nāgārjuna), văn chương Kinh Bát Nhãthế cho rằng tất cả các pháp như là mộng, như là ảo giác ma thuật (māyā). Có một cái gì đó nơi kinh nghiệm mà một người có thể diễn tả rõ ràng với những từ của pháp, vì thế thật là sai lầm khi chối bỏ sự hiện hữu của những điều nầy; nhưng mà chính nó cũng không có sự hiện hữuthực chất. Những gì chúng ta kinh nghiệm không hiện hữu trong ý nghĩa chắc chắn, nhưng chỉ trong tính cách tương đối, như là một hiện tượng đã đi qua. Tính chất của pháp nằm giữa sự “không hiện hữu” tuyệt đối và sự “hiện hữu” có thực chất, theo một đoạn trong kinh (Sutta) mà ngài Long Thọ (Nāgārjuna), đã nhắc qua (S.II.16—17; xem tr.69). Đây là những gì mà ngài Long Thọ (Nāgārjuna), muốn nói về “Trung Đạo”. Sự giải thích của phái Đại Thừa về Duyên khởi cho rằng đây là những hiện tượng không phải chỉ nương tựa vào nhau để “xuất hiện” đúng lúc, nhưng vì bản tính của chúng là như vậy. Vì thế chúng không thể nào được xem như là những thực thể rời rạc khi mà chúng tương tác với nhau. Tự “nó”, một vật không là gì hết. Nó chỉ là nó khi đang liên hệ với những vật khác, và chúng chỉ là chúng khi liên hệ với một vật nào đó và với những vật khác. Trong cuộc khảo sát về tiến trình của sự nhận thức (Mk.ch.3), ngài Long Thọ (Nāgārjuna) tranh luận rằng không có hoạt động nào mà cái thấy không thấy liền ngay trong lúc đó. Vì vậy một người không thể nói là có một cái gì đó, “cái thấy” sau đó tự thực hiện một hành động riêng rẽ “thấy” : “cái thấy” và “thấy” là nương tựa lẫn nhau và không thể nào bị nhận diện một cách riêng rẽ. Như văn chương Kinh Bát Nhã đã nói đến một cách nghịch lý là cái thấy là “rỗng” của cái thấy. Vì vậy, không có một hành động thật sự của “cái thấy” đang “thấy”. Nhưng nếu cái thấy không thấy, thì cái không thấy chắc chắn không thấy, làm sao chúng ta có thể nhận diện một “người thấy” được mô tả bởi “cái thấy” của chính họ? Tất cả những nhận thức nầy, có ý nghĩa khi liên hệ với nhau. Cũng vậy, cái gì ngắn thì nương tựa vào cái gì dài; vì nhận thức ngắn và dài chỉ là tương quan “nương nhau mà có”. Ánh sáng là ánh sáng đối với bóng tối; vì chính bóng tối vắng mặt. Với những lý luận nầy, Nāgārjuna (Long Thọ) còn nói là “cái bị điều kiện hóa, lệ thuộc” là, [theo truyền thống một danh từ dành cho Niết Bàn, và trong phái Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvāstivādin Abhidharma, space)] với tính cách khái niệm, nương tựa vào những điều kiện, những gì nghịch lại với chính nó (Mk.ch. 7, v. 33). 

Tục đế và ngôn ngữ

Trường Trung Quán (Madhyamaka) cho rằng đối với bản chất của các hiện tượng, sự rối loạn xuất hiệncon người không hiểu Đức Phật đã dạy là có hai cấp bực chân lý: “Tục đế” (saṃvṛti-satya) và “chân lý tuyệt đối” (paramārtha-satya) (Mk.ch.24,vv.8-9). Trong Thắng Pháp (Abhidharma) hai cấp bực chân lý nầy đã hiện hữu. Nơi đây, “tục đế” được giải thích bằng những từ “người” và “vật”; “chân lý tuyệt đối” được nói đến bằng những lời chính xác, và diễn tả bằng những từ của pháp (dharmas). Đối với những nhà văn Trung Quán tông (Mādhyamika), khi nói về pháp (dharmas) cũng chỉ là một loại tục đế tạm thời, mà chân lý tuyệt đối thì vượt hẳn. Đối với những người Trung Quán tông (Mādhyamika), những câu nói chân thật được dùng đến ở cấp bực thường là “thật” vì nhân loại đồng ý dùng những nhận thức đó như vậy; bởi vì những quy ước của ngôn ngữ. “Nước đá thì lạnh” là thật vì “nước đá” là một danh từ dùng để chỉ cho một dạng của “nước” mà kinh nghiệm là “lạnh”. Những chữ trong ngôn ngữ xuất hiện bắt nguồn từ một dòng kinh nghiệm liên tục, một thuyết khái niệm khác biệt (prapañca) trừu tượng hóa những đoạn khác nhau, và cho rằng nó là những thực thể hoặc những phẩm chất riêng rẽ với bản chất cố định của nó. Những chữ nầy vì vậy trở thành trọng tâm của sự bám víu. Sự xây dựng ngôn ngữ (prajñapti) là những nhãn hiệu cho nó, và hoạt động tương tác với nhau bằng nhiều cách. Nó mang một ý nghĩa nào đó tùy theo nó được sử dụng như thế nào, đối với những nhận thức khác, không phải đối với những vật bị ám chỉ hiện hữu ngoài ngôn ngữ. Trong khi ngôn ngữ thì định nghĩa như thế nào chúng ta kinh nghiệm về thế gian, nhưng ngôn ngữ tự nó không làm cho mọi vật hiện hữu; ngôn ngữ cũng chỉ là một hiện tượng lệ thuộc và rỗng không. Một “vật” đặc biệt bước vào thế giới loài người bằng sự khác biệt qua một cái tên hoặc một nhận thức, nhưng cái nầy hiện hữu vì đối với cái kia mà nó đang thích ứng: cả hai đều hiện hữu vì chúng liên quan với nhau (Mk. ch.5)

Rỗng không

Trong nhận thức của phái Trung Quán tông hay Không tông (Śūnyatāvādin), mỗi hiện tượng thiếu một bản chất cố hữu, và vì vậy mọi vật đều có sự “vô tính” (non-nature) trống rỗng như tự tính của nó: vì thế, cuối cùng một pháp không thể được định nghĩa riêng biệt: các pháp (dharmas) đều có một “bản chất giống nhau”. Bản chất tự nhiên giống nhau của nó là “không” (śūnyatā). 

Như Kinh Trái Tim (Heart Sūtra) nói, “cái gì có hình thể, là không và cái gì không là hình thể” (và cũng như vậy đối với bốn nguyên tố kia của một nhân cách). “Không” không phải là một nền tảng và bản chất cuối cùng của thế gian, giống như Phạm Thiên (Brahman) của Upaniṣads. Ở đây hàm ý rằng không có một bản chất nào tự nó có thể hiện hữu: thế giới là một màn nhện của sự uyển chuyển, phụ thuộc lẫn nhau, những hiện tượng không có nền tảng. Ngài Long Thọ (Nāgārjuna), thật ra, làm cho cái không cân bằng với nguyên tắc của Duyên Khởi (Conditioned Arising); vì một cách hợp lý theo Duyên Khởi thì là như thế (Mk.ch.24, v.18). Rỗng không, cũng là một phẩm chất của pháp có tính cách tính từ, không phải là một bản chất tạo nên pháp. Nó không phải là một vật cũng không phải là trống không; hay đúng hơn nó đối với thực tế thì không thể nào bị đóng khuôn trong những nhận thức

Vài nhà vật lý đã thấy vật lý học hiện đại chứa đựng những nhận thức song song. Khi những vật “cứng” đối với ý nghĩa thông thường thực tế được phân tách lần đầu, người ta thấy nó chứa đựng những hạt protons, neutrons, electrons và một khoảng trống. Vật lý cổ xưa thấy nó là cứng, không thể nào bị tách rời hay phân chia thành những phần tử nhỏ, nó là những khối kiến trúc cuối cùng của vật chất; nhưng với sự phân tách xa hơn cho thấy nó có những phần tử lạc lỏng như “hạt quác” (quarks), mà tự tính là dính liền với những sức mạnh mà nó tương tác. Vật chất phút chốc trở thành một phạm vi đầy huyền bí của sự tương tác, với những “phân tử” không phải là những thực thể tách rời, nhưng là những mệnh danh tạm thời dùng để thích ứng với những khái niệm.
Những nhà phê bình từ những trường phái trước đây cho rằng dạy về sự trống không dường như muốn ám chỉ rằng Tứ Diệu Đế cũng là không và như vậy là phá hoại sự giảng dạy của Đức Phật. Để trả lời, ngài Long thọ (Nāgārjuna) tranh luận rằng đấy là khái niệm của pháp (dharmas)- với bản chất cố hữu- phá hoại Tứ Diệu Đế (Mk.ch.24). Nếu đau khổtự tính, nó sẽ không bị lệ thuộcthường hằng, và không thể nào ta làm cho nó chấm dứt. Nếu con đườngtự tính, nó không bao giờ có thể được phát triển dần dần nơi một con người; vì một người hoặc có nó hoặc không có. Trong một thế giới của những thực thể với tự tính của nó, tất cả mọi thay đổi và hoạt động đều không thể nào có được; mọi vật sẽ bất độngthường hằng. Nhưng bởi vì mọi vật đều là không, cho nên mới có được sự hoạt động, kể cả sự phát triển về tâm linh. Sự tương tự, ở đây là một hệ thống với những số thập phân sẽ hoàn toàn bị sụp đổ nếu không có số không (một khái niệm bắt nguồn từ Ấn Độ ).

Phương tiện thiện xảo 
và những nhận thức siêu việt

Ngài Long thọ (Nāgārjuna) nhấn mạnh rằng chân lý tối hậu được diễn tả bằng bài nói về Không, và bài nầy hoàn thành chân lý hơn là phá hoại nó. Thật vậy, người ta có thể chỉ hiểu được nó nếu người ta hiểu rõ về Tứ Diệu Đế (Mk.ch.24, v.10). Đây nói về nhận thức của “phương tiện thiện xảo”, mà trong nhận thức của nhóm Không tông (Śūnyatāvadin), là phát triển để nói hết về những bài giảng Phật giáo- kể cả những bài giảng của nhóm Không tông- được xem là những phương sách tạm thời. Những bài giảng, đặc biệt về Duyên Khởi, chỉ đưa dẫn con người đến chỗ có được một tinh thần thiện xảo: một tinh thần mà sự thấu hiểu sâu sắc chỉ có thể là chân lý tối hậu khó giải bày, siêu việt hơn mọi bài giảng khác. 

Một phương pháp của ngài Long thọ (Nāgārjuna) trong Kinh Trung Quán Luận Tụng (Madhyamaka-kārikā), là phê bình hết những nhận thứclý thuyết về những thực thể hoặc nguyên tắc cuối cùng. Ngài làm được điều nầy bằng cách cho thấy rằng những kết quả cần thiết (prasanga’s) lại mâu thuẫn với chính những nhận thức của nó, và như vậy nó bị giảm xuống như một kinh nghiệm hoặc sự vô lý. Hơn nữa, Long thọ (Nāgārjuna) tìm cách chỉ cho thấy rằng những nhận thức dường như hợp lý của vài đề tài không thể đứng vững. Nơi đây, ngài dùng phương cách của “tứ cứu hoặc phủ nhận bốn góc” (catuṣkoti), một phương sách để khảo sát và từ chối tất cả bốn lập luận hợp lý thay phiên nhau về một đề tài: x là y, x không phải là y, x là y và không phải là y, x không phải y cũng không phải là y.

Trong chương I, Long thọ (Nāgārjuna) khảo sát những lý thuyết về “nguyên nhân”. Khả năng hợp lý đầu tiên là “tự sản xuất”: là một kết quả xuất hiện sau cùng, từ một nguyên nhân giống như bản thể của nó, phần căn bản của một bản chất giống nhau [như trường phái Số Luận (Sāṃkhya) của Ấn giáo]. Đây đưa đến một bế tắc về tính tự sao lại (self-duplication), nhưng, nếu một vật sản xuất ra chính nó thì không có gì có thể làm cho nó chấm dứt tiến trình nầy. Thế giới không tuân theo như vậy. Nếu một chất liệu giống nhau tự biểu hiện một cách khác chỉ khi nào những điều kiện cho phép, sự “tự sản xuất” đã bị từ bỏ.

Khả năng thứ hai, “sản xuất cái khác”, nghĩa là một kết quả xuất hiện từ một nguyên nhân “khác” hơn là chính nó, với một “tự tính” khác. Ở đây, Long thọ (Nāgārjuna) tranh luận rằng, nếu những thực thể khác nhau thật sự hiện hữu, tất cả đều sẽ “khác” nhau một cách công bằng, do đó bất cứ cái gì cũng có thể là “nguyên nhân” của bất cứ gì khác. Để nói rằng một nguyên nhân và một kết quả khác của nó lúc nào cũng xảy ra chung với nhaukhông giải thích gì về nguyên nhân hoạt động bằng cách nào. Một cái gì “khác” hơn là cái gì đó, không thể là nguyên nhân của nó. Một “nguyên nhân” không phải là một “nguyên nhân” tự nơi chính nó, vì nó chỉ có khi liên hệ với “kết quả” của nó (v.5).

Thuyết thứ ba là nguyên nhân bao gồm cả “tự sản xuất” và “sản xuất cái khác”. Nếu đây có nghĩa là các phần của nguyên nhân và kết quả giống nhau, và có phần thì khác nhau, những vấn đề của hai nhận thức trước đều áp dụng. Nếu đây có nghĩa là tất cả nguyên nhân vừa giống, vừa khác tất cả những kết quả, thì đây là điều không thể được. Khả năng cuối cùng có thể xảy ra là tất cả mọi vật không bắt nguồn từ việc “tự sản xuất” hoặc “sản xuất cái khác” : tự ý không cần nguyên nhân. Nhưng nếu đây là sự thật, thì tất cả mọi thứ đều đảo lộn không thể dự đoán được, mà thực ra không phải vậy. Nhận thức sau cùng nầy, xin ghi nhớ, không phải của ngài Long Thọ (Nāgārjuna). Địa vị của Long Thọ (Nāgārjuna) dường như ở cấp bực thường của các hiện tượng, nguyên nhân có thể được quan sát, với “một” vật làm ra một vật “khác”, nhưng không có thuyết hợp lý nào của nguyên nhân có thể giải thíchhoạt động ra sao. Bởi vì, ở cấp bực cao tột, không có một “vật” thật nào có thể tìm thấy được “nguồn gốc” từ đâu. Long thọ (Nāgārjuna) cũng phân tách những nhận thức như vậy như là sự chuyển động và thời gian (ch. 2 và 19), và ngụ ý để cho thấy rằng những định nghĩa của chúng ta về những điều nầy thật là tự mâu thuẫn.

Phái Trung Quán (Mādhyamikas) nói về không, và rồi, với ý địnhthuốc giải độc cho mọi thuyết khác: “Những vị thắng trận (các vị Phật) công bố Không như là một bác bỏ về tất cả các nhận định; nhưng với những người nắm giữ “không” như một dự kiến thì thật là hết thuốc chữa” (Mk. ch.13, v.8). Long Thọ (Nāgārjuna) khảo sát những nhận định của các người khác như một dạng liệu pháp tâm linh để giúp cho họ thoát khỏi những nhận định bế tắc. Khi làm như vậy, ông cho rằng là ông không có những giả định trước của mình, nhưng để làm việc chung với những người chống đối ông, và sự hợp lý theo tập quán, biễu diễn một loại nhu đạo hợp lý. Những hiểu biết sâu sắc có được là do sự thiền định thâm sâu về những hiện tượng.

Trường Độc Lập biện chứng phái (Svātantrika)– Trung Quán (Madhyamaka) tin rằng sự hợp lý tự nó không rỗng nhưng có sự hiện hữu tự động (svatantra), những câu có giá trị tích cực như vậy được hình thành từ nhận thức của Trung Quán (Madhyamaka). Những suy luận ở cấp bực thường thật sự là một cây cầu ít ra đối với những nhận thức về chân lý tuyệt đối. Trường Cụ Duyên tông (Prāsangika) mặt khác, nhấn mạnh rằng Trung Quán (Madhyamaka) chứa đựng một biện chứng tiêu cực để bác bỏ những nhận thức của các kẻ khác, và cho rằng chân lý tuyệt đối hoàn toàn vượt xa hẳn những hợp lý, chữ nghĩa và khái niệm. Đây dường như là đồng ý với Kinh Bát Nhã, và dĩ nhiêntìm cách tránh lập luận bất cứ nhận thức nào, hoặc thật ra để “nói” bất cứ gì: “không có gì để phải hiểu. Vì không có gì đặc biệt được chỉ dẫn, không có gì đặc biệt để được giải thích” (Asta.38).

Chân lý tuyệt đốinhư như

trình độ cuối cùng, kể cả nói đến “không” cũng cần được dẹp bỏ: mọi vật đều là rỗng không thì chúng không thực sự hiện hữu, một người cũng không thể nói “chúng” là “rỗng không” (Mk. ch.22, v.11): “sự rỗng không của các pháp là rỗng của chính cái rỗng không của nó” (Panca.196). 

Sự thật cuối cùng, do đó, là thực tại không thể giải bày hay nghĩ bàn: “khi phạm vi của ý nghĩ ngừng bặt, cái đó có thể được gọi là ngừng bặt” (Mk.ch.18, v.7). 
Văn chương Bát Nhã chứa đựng những nhận thức khó nắm bắt về những liên quan tinh tế xa rời hẳn chữ nghĩa. Một điển hình là nó dùng cho ý nghĩa của “như như” (tathatā): “như như” hoặc “như vậy”. Cái như như của một vật, tương đương với cái rỗng không của nó, ở ngay nơi nó-là-như-vậy, nó như nó là, không có khái niệm thêm bớt gì: nó chỉ là “như vậy”. Cái như như thì “không thay hay biến đổi, không phân biệt, không khác”, nó không thuộc về nơi nào, không ở quá khứ, hiện tại hoặc tương lai, và cũng chính cái như như đó được tìm thấy trong các pháp (dharmas) (Asta.307). 

“Thực tại chân thật” (tattva) thì “không bị lệ thuộc bởi bất cứ cái gì, bình an, không bị soạn thảo tỉ mỉ bởi sự gia tăng của khái niệm (prapañca) (Mk.ch.18, v.9). Chân lý cuối cùng chỉ được biết đến khi ta vượt hẳn sự vô minh và thấy rõ những giới hạn của ngôn ngữ, không còn bám víu hay phát sinh ra những xây dựng của ngôn từ mơ hồ, chỉ còn là sự điềm đạm bình thản hoàn hảo. Những hiện tượng bị điều kiện hóa, rỗng không, được xem là vô giá trị và vì vậy chúng không còn được tạo ra nữa, do đó với sự thấu hiểu về chân lý cuối cùng tức là đạt đến cái vui của Niết Bàn (Nirvāṇa) (Mk. ch.24, vv.10 và 24).

Niết Bàn (Nirvāṇa) và Luân hồi (saṃsāra) 

Trong ý tưởng của phái Không tông (Śūnyatāvādin), Niết Bàn (Nirvāṇa) đạt được không được xem là một pháp khác với những pháp bị điều kiện hóa của luân hồi (saṃsāra), “không có một chút gì khác biệt giữa hai thứ nầy” (Mk. ch.25, v.20). Làm thế nào được? Chính nguyên tố “vô điều kiện hóa” của Niết Bàn (Nirvāṇa) tương phản với luân hồi (saṃsāra), ở cấp bực thường, làm cho nó chỉ hiện hữu trong liên quan đối với chính nó, và như vậy nó rỗng không. Niết Bàn (Nirvāṇa), thực ra được xem là trống không (Pali suññatā) bởi những trường Phật giáo ở buổi ban đầu; vì Niết Bàn (Nirvāṇa) được xem là không có những trần cấuxa lìa hẳn những nhận thức bằng từ ngữ

Sự điều kiện hóa cũng như vô điều kiện hóa không thể bị xem là khác nhau vì “cả hai” đều “là” không. Hơn nữa, các trường Phật giáo xem Niết Bàn (Nirvāṇa) là “vô sanh”, “bất tử” và thường hằng, đối với nhận thức của Không tông (Śūnyatāvādin), các pháp bị điều kiện hóa có thể được giải thích giống nhau. Bởi vì nếu nó không có tự tính, và không hiện hữu như tự tính của nó, nó không thể bị xem là vô thường (không phải là thường hằng): nó vẫn là “không có nguồn gốc” (Kinh Trái Tim), “vô sanh”, và không khác gì với Niết Bàn. Như vậy, Niết Bàn (Nirvāṇa) không đạt được bởi sự nhổ tận gốc của bất cứ cái gì chân thật, gọi là trần cấu nhưng bằng sự không cấu tạo thêm những điều kiện trong thế giới luân hồi (saṃsāra): vì tất cả pháp là Niết Bàn (Nirvāṇa) ngay từ buổi ban đầu”. Niết Bàn (Nirvāṇa) và luân hồi không là hai thực tại rời rạc, lĩnh vực về trạng thái rỗng không, được nhìn thấy bằng vô minh hoặc sự hiểu biết chân thật.

Ý tưởng Niết Bànluân hồi (saṃsāra) không khác nhau và giữ một vai trò quan trọng trong nhận thức Bát Nhã. Một khi “được thành lập”, tiếp theo đó là những kết luận với những hậu quả hoàn toàn nằm trong ý tưởng của Đại thừa (Mahāyāna). Quan trọng nhất, một vị Bồ Tát (Bodhisattva) không cần phải tìm kiếm một lối thoát luân hồi (saṃsāra) để đạt Niết Bàn. Vị Bồ Tát có thể hoạt động không mệt mỏi để giúp đỡ “những chúng sinh đau khổ”, giữ ý tưởng rằng Niết Bàn là một cái gì đó đã có mặt ở nơi luân hồi (saṃsāra). Như một vị Bồ Tát cao cấp, ngài kinh nghiệm liền cái không đối đãi (non-duality) của luân hồiNiết Bàn, sự thấu rõ nầy được hoàn thiện khi đạt đến quả vị Phật (Buddhahood) - Niết Bàn trong ý nghĩa cao nhất. Bản chất của quả vị Phật, “Phật tính” (buddhatā), là không, như là tự tính của mọi vật. Vì thế, mọi chúng sinh đều được xem là có một bản chất không khác với Phật tính. Không có sẵn bản chất nầy, làm sao những chúng sinh yếu đuối tầm thường có thể dần dần trở thành một vị Phật toàn giác? Nhiệm vụ của chúng sinh, như vậy, không phải là “đạt” một cái gì đó mà họ chưa từng sở hữu, nhưng mà là khám phá và biết về Phật tính của chính mình. Nhiệm vụ của một vị Bồ Tát là giúp đỡ chúng sinh một cách thiện xảo trong việc tìm lại Phật tính của mỗi người.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31319)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26211)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27506)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27877)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26693)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31190)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20246)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22885)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30020)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21542)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20219)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22627)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20736)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30272)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28755)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34695)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44194)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35487)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22518)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21341)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20659)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24744)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37878)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19015)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19306)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21784)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20853)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29502)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35085)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28799)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32588)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26200)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28910)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43114)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34912)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43887)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37852)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21314)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43008)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48995)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39812)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53767)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36807)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40782)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49720)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47294)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27675)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27013)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27213)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24063)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20834)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34299)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22448)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25087)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25817)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22933)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22459)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21738)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23310)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21153)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant