Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

29. Con Người Từ Đâu Đến

23 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9733)
29. Con Người Từ Đâu Đến

PHÁ MÊ KHAI NGỘ
 Lê Sỹ Minh Tùng

29. Con Người Từ Đâu Đến

Đã là con người sống trong thế gian này, cũng có một giây phút nào đó chúng ta thắc mắc là mình từ đâu mà đến? Và mình sẽ đi về đâu? Tại sao có kẻ thì xinh đẹp, còn có người lại xấu xí? Có người thì khỏe mạnh, sao lại có kẻ bị tật nguyền? Ai là người chịu trách nhiệm cho tất cả những việc này?
 

 Vậy trước hết chúng ta phải tìm hiểu xem con người từ đâu mà có?
 

 Những tôn giáo thờ Thượng đế, thì con người là sản phẩm của Ngài. Chính Thượng đế là đấng Tối cao, Toàn năng, Toàn thiệnToàn trí, chẳng những đã tạo ra con người, mà còn sáng tạo ra cả thế gianvũ trụ nữa. Lý luận như vậy mới nghe qua thì thật là hữu lý, nhưng xét cho kỹ thì bất cứ cái gì trên thế gian nầy cũng đều phải có thỉ có chung, có nhân có quả. Nói thế có nghĩa là gì? Nếu nói Thượng đế đã sáng tạo ra con người, thì ai đã sáng tạo ra Thượng đế? Thượng đế từ đâu mà ra? Không có nhân thì làm sao có quả? 
 

Còn Phật giáo thì trả lời như thế nào?
 

 Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi muốn nói đến thuyết “Thập nhị nhân duyên” của Đức Phật. Vậy thế nào gọi là nhân duyên? Nhân có nghĩa là nguyên nhân, dùng để chỉ những vật chính làm nhân và chính nó trực tiếp sinh ra một vật khác. Chẳng hạn như hạt lúa là nhân sinh ra cây lúa. Còn duyên là trợ duyên, chỉ cho những vật có tính cách trợ giúp dù trực tiếp hay gián tiếp cho vật khác được thành. Chẳng hạn như phân bón, ánh sáng, nước và công vun bóntrợ duyên cho hạt lúa trở thành cây lúa. Mười hai nhân duyên đó là:
 

1) Vô minh: có nghĩa là không tỏ ngộ chân tâm, hoặc là hiểu biết các pháp không đúng như thật do đó mà sinh ra mê lầm. Cái thật thì cho là giả, giả thì cho là thật, điên đảo hư vọng chấp ngã. Trong 12 nhân duyên, thì vô minhlợi hại nhất.
 

2) Hành: là hành động, tạo tác. Do vô minh phiền não nổi lên, làm cho thân, khẩu, ý tác tạo ra các nghiệp lành hay dữ.
 

3) Thức: là thần thức (còn gọi là linh hồn). Vì thân, khẩu, ý tác tạo những nghiệp lành hay dữ nên khi chết rồi, các nghiệp dẫn dắt thần thức đi lãnh thọ quả báo khổ hay vui ở đời sau.
 

4) Danh sắc: là thân tâm. Trong thân thể của con người, thì phần tinh thần (tâm) không có hình sắc nên gọi là Danh, còn phần thể chấthình sắc thì gọi là Sắc.
 

5) Lục nhập: mỗi khi lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) thì lục thức được phát sinh và sự thu nhập lục thức này gọi là lục nhập.
 

6) Xúc: là sự tiếp xúc của lục căn với lục trần, như tai nghe tiếng nói, thân cảm thấy nóng lạnh…
 

7) Thọ: là thọ lãnh, khi lục căn tiếp xúc với lục trần, thì thọ lãnh những cảnh vui hay cảnh buồn.
 

8) Ái: là ưa muốn. khi thọ lãnh cảnh vui, thì sinh lòng tham; khi gặp cảnh khổ thì sanh tâm sân hận, buồn rầu. Đây là cái động cơ thúc đẩy thân, khẩu, ý tạo tác ra những nghiệp.
 

9) Thủ: là giữ lấy. Nếu gặp cảnh tốt thì tham cầu, gặp cảnh xấu thì phát sinh sân, si để lìa bỏ. Đây là nguyên nhân tạo ra nghiệp sinh tử.
 

10) Hữu: là có. Bởi vì đời này chính mình đã tạo ra nhân lành hay nhân dữ, thì đời sau phải chịu quả khổ hay vui mà mình phải thọ lãnh.
 

11) Sanh: là sanh ra. Do ái, thủ, hữu làm nhân hiện tại tạo ra các nghiệp, vì vậy phải sanh ra đời sau để thọ quả báo.
 

12) Lão, Tử: già và chết. Đã có sanh, tất phải chịu khổ già rồi chết.
 

Khi còn ở trên thế gian này, thì vô minh đã làm cho tâm của chúng ta bị mê muội để không còn sáng suốt phân biệt đâu là thật, đâu là giả và nhận biết sai lầm về con ngườivạn vật trong vũ trụ nầy. Nhận biết sai lầm chính là cội nguồn phát sinh ra tam độc Tham-Sân-Si để tạo ra nghiệp mà dẫn họ đi lên, đi xuống lang thang lẩn thẩn trong sinh tử Luân hồi. Những nghiệp báo này có khi thiện, có khi ác. Khi chúng ta qua đời, thì những nghiệp báo này đi theo chúng ta như hình với bóng. Tất cả những nghiệp báo này được gom góp lại và được gọi là “nghiệp thức”. Thân tứ đại của chúng ta thì trở về với tứ đại, còn nghiệp thức thì tiếp tục bám theo thần thức (linh hồn của những tôn giáo khác).
 

Một khi chúng ta chết, ngũ uẩn tan rã và nghiệp lực dẫn dắt đi đầu thai. Nhưng dẫn dắt cái gì? Như chúng ta đã biết Lục thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thứcý thức) thì sanh diệt vô thường, biến chuyển không ngừng, thì mặc dầu nghiệp thức còn đó, nhưng lấy cái gì gìn giữ những nghiệp thức đó để chuyển qua đời tương lai?
 

 Trong thuyết nghiệp cảm duyên khởi, chính Đức Phật đã khẳng định rằng một khi con người gây ra bất cứ một nghiệp thức nào thì nó sẽ được bắt lấy và gìn giữ mãi mãi trong Tàng thức từ đời nầy sang đời khác, không bao giờ mất. Thí dụ chúng ta vừa tạo một ác nghiệp thì Mạt-Na thức tức thì ghi nhận hiện tượng nầy và sau đó chuyển cái ác nghiệp nầy vào lưu giữ lại trong A-Lại-Da thức (Tàng thức). Duy thức luận gọi Mạt-Na thức là thức thứ bảy và A-Lại-Da thức là thức thứ tám sau lục thức. Có một điểm khác biệt là lục thức: nhãn thức, nhỉ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức thì sinh diệt tức là nay có mai không, không có gì quan trọng. Còn Mạt-Na thứcA-Lại-Da thức thì không bao giờ mất. 
 

 Hễ con người còn tạo nghiệp thì nó còn giữ tất cả những chủng tử nầy đến khi hội đủ nhân duyên thì nó sẽ phát khởi tạo thành quả báo và nó chính là cái vui hay cái khổ của con người trong đời nầy. Vì thế tiến trình nầy còn được gọi là “kết nối đời sau”. Tại sao? Con người do phiền não mà tạo nên nghiệp và vì tạo nghiệp nên mới tiếp nối đời sau để thọ khổ. Nếu khôngA-Lại-Da thức nầy để nắm giữ việc “kết nối đời sau” thì chúng ta một khi chết rồi thì mất luôn, không còn gì cả. Chính Mạt-Na thứcA-Lại-Da thức tự nó mang tính chất của cái ngã. Cái ngã vô hình để gìn giữ lấy tất cả những nghiệp thứcchúng ta đã tạo ra. Thêm nữa Mạt-Na thứcA-Lại-Da thức có khả năng chất chứa những chủng tử của nghiệp thức đến vô tận và kéo từ đời này sang đời khác, tiếp diễn không ngừng. 
 

 Nó chính là nền móng của nhân quả luân hồi, mà cũng là căn nguyên của giải thoát. Bởi vì trong A-Lại-Da thức có đủ chủng tử hữu lậuchủng tử vô lậu. Chủng tử hữu lậu tức là phần phước đức chính là những hạt giống phát sinh ra những hiện tượng vui khổ của con người. Còn chủng tử vô lậu tức là phân công đức có khả năng không để cho tâm vọng động tứcthanh tịnh tâm và giúp cho chúng ta tìm đến sự giải thoát.
 

 Vậy con người từ đâu mà có?
 

Khi có sự giao hợp giữa nam và nữ, thì Thân Trung Ấm (thần thức) của người chết được thác sinh vào thai mẹ để làm người. Trong thai mẹ, gom góp tinh huyết làm nhục thể và sau đó tâm thức cùng nhục thể hòa hợp với nhau gọi là Danh Sắc (Danh là tâm thức, sắc là nhục thể). Với thời gian, Danh Sắc lần lần tượng đủ lục căn (mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, ý). Khi thai nhi được sanh ra, thì lục căn của hài nhi bắt đầu tiếp xúc với lục trần, do đó hài nhi biết nóng, lạnh, đau, êm…Bởi vì sự xúc chạm này, mà tâm của hài nhi dần dần phát sanh ra sự phân biệt rồi từ đó có những cảm giác thọ vui, hay khổ…Chính sự cảm thọ vui, khổ này mà phát sinh ra những khởi niệm ưa ghét. Cũng chính vì sự tham ái đó nên nó cố bám vào cái hay cái tốt, cái nó ưa thíchdĩ nhiên vì muốn thỏa mãn những chỗ ưa thích đó, nên nó tạo ra nghiệp căn. Mà tạo nghiệp thì phải chịu quả báo.
 

Đã có sanh, thì chúng sẽ già và sau cùng là chết. Như thế, một khi chúng ta tạo nhân trong quá khứ, thì nó sẽ là quả của hiện tại và quả của hiện tại sẽ là nhân cho quả của tương lai. Con người cứ như thế mà xoay vần mãi mãi không ngừng, đời nầy tan thì đời khác đến. Từ đấy mà suy ra thì chúng ta thấy rằng con người chẳng những sống một đời trong hiện tại này, mà trong quá khứ đã trải qua không biết bao nhiêu cuộc đời rồi. Và sau nầy, trong tương lai chúng ta sẽ còn nối tiếp biết bao cuộc sống khác.
 

Nói một cách khác, chết là để thay đổi thân mới và sanh là để thế thân cũ. Nó xoay vần nối vòng sanh và chết, chết và sanh, thay thân cũ lấy thân mới, rồi lấy thân mới để thế thân cũ, như chúng ta thay đổi áo quần hàng ngày. Vậy thân thể của chúng ta ngày nay chỉ là một thân trong số vô lượng thân. Chúng ta đã thay bỏ không biết bao nhiêu thân về trước và sau này chúng ta cũng sẽ thay đổi không biết bao nhiêu thân nữa.
 

Khi đã hiểu sanh tử như thế thì chúng ta, đối với sự sanh không tham cầu bởi vì nó là vô thường không lâu không bền và đối với cái chết không sợ hãi bởi vì chết không phải mất hẳn đi, mà chỉ là sự thay cũ đổi mới mà thôi.
 

Sự sanh hiện tại, chỉ là một lần sanh trong vô lượng lần sanh, và sự chết ngày nay chỉ là một cái chết trong vô lượng lần chết mà thôi. Chúng ta đã thấy mười hai nhân duyên chẳng khác nào như mười hai vòng xích nối liền nhau làm thành một chuỗi xích, không biết đâu là đầu, đâu là cuối. Nếu cắt được một vòng xích, thì chúng ta sẽ phá được chuỗi xích nầy. Theo giáo lý nhà Phật thì sanh tử luân hồihiện tiền của nghiệp báo, là oan gia, là thê lương đối với con người. Nhưng làm thế nào để trừ phá cái vòng xích oan nghiệt kia? Trong mười hai nhân duyên, thì chữ “Ái” là quan trọng nhất. Ái là luyến ái, là cội nguồn của tham dục. Vì luyến ái nên chúng ta làm mọi thứ để giữ lấy (thủ) cho mình, rồi sau đó thủ sẽ sanh ra hữu (có). Vậy nếu không có ái thì không có hữu, không có hữu thì không có sanh, không có sanh thì không có lão tửcuối cùng thì không còn đau khổ luân hồi.
 

Nhưng tại sao chúng ta lại đầu thai vào làm con của cha mẹ chúng ta mà không vào gia đình của người khác?
 

Sự quan hệ giữa cha mẹchúng ta có bốn loại: Báo ơn, Báo oán, Đòi nợ, và Trả nợ.
 

Trong đời quá khứ, nếu chúng ta kết duyên với cha mẹ của chúng ta, thì đời này chúng ta sẽ gặp lại họ. Nếu là ác duyên, thì chúng ta đến để đòi nợ và đôi khi còn tệ hại hơn nữa là chúng ta đến để báo oán bởi vì kiếp trước họ đã gây ra đau khổ cho chúng ta. Nợ càng lớn thì chúng ta đòi càng nhiều. Vì thế cổ nhân thường nói đây là oan gia nghiệp báo. Thật là chí lý. Còn nếu là phước duyên, thì chúng ta đến để báo ơn, để đền đáp lại những gì họ đã giúp đỡ cho chúng ta trong tiền kiếp. Đây chính là cảnh”phụ từ, tử hiếu”.
 

Có người lại thắc mắc là tại sao ở đời có người thì đẹp đẽ, còn có kẻ bị tật nguyền?
 

Trong kinh Thiên Sanh, Đức Phật đã dạy rằng: ”Khi còn sanh tiền, thân, khẩu, ý thì thọ điều lành hay gây ra điều dữ. Nếu tạo nghiệp lành, thì cảm thân tốt đẹp; nhân dữ chiêu cảm quả xấu xa, do từ tâm tạo ra rồi tự thọ. Nếu chúng sanh muốn được thân thể tốt đẹp khỏe mạnh để hưởng hạnh phúc, thì phải lấy năm giới cấm làm căn bản”.
 

Muốn được thân thể khỏe mạnh, sống lâu trong tương lai, thì đừng bao giờ sát sinh. Muốn có giọng nói điều hòa trong trẻo, thì đừng nên vọng ngữ. Muốn thân hình được đoan trang, đẹp đẻ, thì đừng đụng đến việc tà dâm. Muốn gia đình được ấm no thì đừng trộm cắp, gian tham.
 

Lúc bình sinh, thì thân, khẩu, ý của chúng ta tạo tác lắm điều ác nghiệp, thì quả tương lai chúng ta phải gánh chịu những hậu quả này. Một trong những quả báo nhản tiền là thân thể của chúng ta trở thành xấu xí. Và đôi khi nếu ác nghiệp này thuộc loại nặng, thì chúng ta có thể bị tật nguyền. Còn kẻ kia thì họ biết giữ gìn trì giới, làm lành tránh dữ, thì đời sau chắc chắn họ sẽ được giàu sang phú quý, và thân thể thì xinh đẹp. Nên nhớ rằng chúng ta tạo nghiệp nhân gì thì tự tâm sẽ gìn giữ nghiệp nhân ấy và sẽ chuyển hiện ra quả đời sau.
 

Con người cũng như mọi vật, sở dĩ có là do nhân duyên hòa hợp. Con người chỉ là một cái tên, là một giả danh để gọi cái kết hợp của ngũ uẩn. Khi đủ nhân duyên chúng nó tập hợp lại thì gọi là sống, khi nó tan rã thì là chết. Chính ngũ uẩn cũng vô thường và không thuần nhất.
 

Vô thường mà tưởng là thường, không ngã mà tưởng là có ngã. Đó là sự si mê lớn nhất của con người và chính do cái si mê này đã làm cho con người đang đau khổ lại càng khổ đau thêm.
 

Sau cùng, chúng ta thấy luật nhân quả đóng một vai trò tối quan trọng trong vấn đề sinh tử của con người. Thậy vậy, thân hiện giờ của chúng ta chính là cái quả của nghiệp thân mà mình đã tạo ra từ trườc. Và thân sẽ có sau này là tùy theo sự tạo nghiệp bây giờ. Khi mà đã hiểu như thế, thì cuộc đời của chúng ta hiện tại dầu có khổ đau hay sung sướng thì cũng chỉ là cái quả của cái nhân đời trước mà thôi. Có than khóc hay vui buồn cũng chỉ thế, không thể thay đổi được gì. Có thay đổi chăng là chúng ta phải cố gắng giữ gìn trì giới, phát huy tâm Bồ-đề, tạo dựng thập thiện nghiệp, thì chúng ta đã tạo được cái nhân lành hiện tại. Do đó cái quả tương lai chắc chắn sẽ vô cùng khả quanviên mãn.
 

Phật dạy rằng: “Niết Bàn là đối với sanh tử mà có, trong tánh Phật, sanh tử đã không, cho nên Niết Bàn cũng như mộng”.
 

“Người phàm phu nhìn nhận tứ đại sắc thân cho là của Ta và tham sống sợ chết thì gọi là ngã tướng. Lòng còn thương ghét, ý chẳng bình đẳng thì gọi là nhân tướng. Niệm tưởng theo cái lòng muốn của phàm phu nó dẫn dắt chẳng cần giải thoát thì gọi là chúng sanh tướngTâm thức chưa diệt trừ, nghiệp chướng thường phát động, chẳng ngộ được cái pháp vô sanh chân không thật tánh thì gọi là thọ giả tướng”.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14314)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 11833)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 14067)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 13226)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 31606)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 13625)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 14779)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 12980)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13846)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 19901)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 58651)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 37263)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 24465)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 11945)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 22218)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 14420)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 29219)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14798)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 15997)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 17676)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 15401)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 18711)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 20254)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 14721)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 14205)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 13083)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 13203)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 15978)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 23404)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 22127)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 21842)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 21249)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 13852)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 14860)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 15809)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 17816)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 16879)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 15764)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 17078)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 12847)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 20161)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 17619)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 22795)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 16013)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 15404)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 13147)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 16897)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 14449)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 24981)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 16080)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12867)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 14901)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 18468)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 21168)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 13577)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 13072)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 17653)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 14511)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 20466)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 21194)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant