Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời người dịch

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 13181)
Lời người dịch

Lời người dịch

Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt: đó là một sự thực lịch sử mà, ngày nay, không một nhà nghiên cứu Phật pháp nào không thừa nhận. Về điểm này, nhà Phật học Nhật-Bản, Bác sĩ Mộc-Thôn-Thái-Hiền (Kimura Taiken), đã viết chung với Bác sĩ Cao-Nam một cuốn sách dưới tiêu đề Ấn Độ Triết Học Tôn Giáo Sử, trong đó, các ông đã giới thiệu một cách cực đơn giản, nhưng rất có hệ thống, tư tưởng Ấn Độ về hai phương diện triết họctôn giáo trước thời đại Phật giáo, làm cho người đọc không những chỉ hiểu nguồn gốc triết học, tôn giáo Ấn Độ trong các thời đại quá khứ mà, đồng thời, còn thấy một cách rất rõ, rất sâu và rộng cái bối cảnh đã sản sinh ra tư tưởng Phật giáo. Nhưng, Kumara Taiken là một học giả Phật giáo, chí ông không phải chỉ ở sự trình bày về tư tưởng triết học, tôn giáo của Ấn Độ cổ đại, mà, đối với tư tưởng Phật giáo, muốn mở ra một con đường tham cứu, bởi thế, công tác của ông đối với toàn thể Phật phápđi theo con đường tiến triển của tư tưởng để tạo nên một bộ luận có tổ chức vá nhất quán: ý hướngtư tưởngtính cách nhất quán này ta có thể thấy rõ trong các tác phẩm của ông, như: Nguyên Thủy Phật Giáo Tư Tưởng Luận (sẽ in một ngày gần đây), Tiểu Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận và Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận (đã xuất bản). Tại sao phải luận cứu như thế? Vì, nhận xét về phương diện phát triển tư tưởng của Phật giáo thì đúng là nó đã từ Nguyên Thủy tiến đến Tiểu Thừa và từ Tiểu Thừa mà đến Đại Thừa, cứ như thế tiến xa, tiến cao và, nghiên cứu Phật giáo, nếu không phát hiện được tiến trình tư tưởng đó thì rất khó mà hiểu một cách chính xác cái sai-dị-tính của Phật giáo qua các thời đại.

Đối với tư tưởng sử của Phật giáo Ấn Độ, Kimura Taiken đã chia thành ba bộ môn Nguyên Thủy Phật Giáo Tư Tưởng Luận, Tiểu Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận và Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận, rồi chỉnh lý và bàn luận thêm để chỉ người ta thấy cái nguồn gốc của tư tưởng Phật giáo Ấn Độ qua các thời kỳ, tức đâu là manh nha của tư tưởng Phật giáo Nguyên Thủy, đâu là tiền đạo của tư tưởng Phật giáo Tiểu Thừa và đâu là tiên phong của tư tưởng Phật giáo Đại Thừa: đọc ba bộ sách này ta sẽ tìm ra manh mối. Bởi thế, nếu muốn hiểu rõ tư tưởng sử của Phật giáo Ấn Độ, chúng ta không thể không đọc ba bộ sách quý giá này. Từ rất sớm, cuốn Nguyên Thủy Phật Giáo Tư Tưởng Luận đã được Âu Dương Hãn Tồn phiên dịch vào năm Dân Quốc XXII và do Thượng Hải Thương Vụ Ấn Thư Quân xuất bản; cuốn Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận do chúng tôi, (Thích Diễn Bồi) phiên dịch năm Dân Quốc XXXXIII và do Hương Cảng Nội Minh Xuất Bản Xã ấn hành. Hai cuốn sách này tuy được xuất bản cách nhau hơn hai mươi năm nhưng đều được các giới học giả coi trọng, đủ biết giá trị của chúng như thế nào rồi. Cái môi giới giữa Nguyên Thủy Phật Giáo Tư Tưởng Luận là Tiểu Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận, bởi thế, nếu không phiên dịch cuốn sau này nữa thì khó mà nhận ra toàn diện tư tưởng Phật giáo. Vì cảm thấy sự cần thiết như thế nên chúng tôi đã cố gắng phiên dịch nó để cống hiến những vị hằng lưu tâm đến việc nghiên cứu Phật pháp.

Cứ theo Kimura Taiken đã nói thì Tiểu Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận cũng còn gọi là A-Tỳ-Đạt-Ma-Tư-Tưởng-Luận. Ngay khi ông bắt đầu viết Nguyên Thủy Phật Giáo Tư Tưởng Luận ông đã có ý nguyện nghiên cứu A-Tỳ-Đạt-Ma Phật Giáo rồi và cuốn Nghiên Cứu A-Tỳ-Đạt-Ma Luận chính là tiên khu vậy. Sau, nhờ đã sưu tập và chuẩn bị được những tài liệu tương đương về phương diện nghiên cứu này nên ông đã dần dần bắt tay vào việc nghiên cứu A-Tỳ-Đạt-Ma Phật Giáo Tư Tưởng Luận mà ông hằng mong ước. Phạm vi liên quan của cái gọi là A-Tỳ-Đạt-Ma Phật Giáo Tư Tưởng, hay, nói khác đi Tiểu Thừa Phật Giáo Tư Tưởng, không phải chỉ hạn cục trong tư tưởng của những bộ luận đặc định nào, nếu suy rộng ra thì có thể nói tư tưởng sử nhất ban của Phật giáo ít ra là quan liên từ sau khi Phật nhập diệt suốt đến thời kỳ tư tưởng Phật giáo Đại Thừa hưng thịnh, do đó, phạm vi nghiên cứu của nó lẽ tự nhiên cũng rất rộng. Song, khảo sát tư tưởng A-Tỳ-Đạt-Ma Phật Giáo không dễ dàng như khảo sát tư tưởng Phật giáo Đại Thừa, bởi lẽ Tiểu Thừa có rất nhiều phái khác nhau mà theo truyền thuyết thông thường thì có tới mười tám hay hai mươi bộ phái, và mỗi phái đều có A-Tỳ-Đạt-Ma Luận Thư riêng, như vậy, tư tưởng đặc hữu do mỗi phái chủ trương đều phải được trình bày. Nhưng, phàm muốn trình bày và giới thiệu tư tưởng của một học phái nào tất phải dựa vào sách vở của học phái đó chứ không thể chỉ căn cứ vào ý tưởng riêng của mình rồi muốn nói thế nào thì nói mà được. Song, ai cũng biết rằng, những luận thư chủ yếu do cả nam và bắc lưu truyền đến ngày nay chỉ một số ít bộ phái có, còn A-Tỳ-Đạt-Ma Luận Thư của nhiều bộ phái hiện nay đã thất lạc. Như vậy, đối với những phái không có sách vở truyền lại thì tư tưởng của họ chỉ còn được biết đến một cách rời rạc và tản mạn từ các luận thư khác và lẽ dĩ nhiên là không được hoàn toàn. Cho nên, nếu đứng về phương diện toàn bộ A-Tỳ-Đạt-Ma Tư Tưởng Luận mà nói thì bộ sách này vẫn chưa đề cập đến tư tưởng tất cả các bộ phái: đều này tưởng không cần nói ai cũng biết. Điều ấy chính tác giả cũng đã phải thừa nhận khi ông nói: “Về tư tưởng này, sự chuẩn bị của tôi, đến một trình độ nào đó, vẫn chưa được chỉnh lý một cách đầy đủ”. Nhưng, như thế không có nghĩa là tác giả đã không dụng công mà thật ra vì đã không có tài liệu làm căn cứ, đó là một sự bất đắc dĩ. Bất cứ ai, khi luận cứu đến vấn đề này cũng sẽ cảm thấy cực kỳ khó khăn mà không có cách nào giải quyết được cả.

Tuy nói thế, nhưng, đối với các A-Tỳ-Đạt-Ma Luận Thư hiện có, tác giả thật đã dầy công nhiên cứu, với cái học uyên báctài năng lỗi lạc, ông đã áp dụng phương pháp hoàn toàn mới trong việc nghiên cứu; điều này xem nội dung tác phẩm của ông cũng đủ rõ. Duy còn một điều chúng cần đặc biệt lưu ý là: trong các Thánh Điển của Phật giáo, bản thân A-Tỳ-Đạt-Ma hết sức phiền tỏa, vả cũng có khi rất khô khan vô vị nữa, bởi thế ta thấy trong tác phẩm của ông, khi ông luận cứu về một vấn đề nào đó, thường đột nhập những vấn đề cực phiền tỏa hoặc cực vô vị khiến cho người đọc không khỏi cảm thấy tẻ nhạt. Nhưng không có cách nào khác hơn, vì lẽ thuyết minh tư tưởng của A-Tỳ-Đạt-Ma Phật giáo mà không đề cập đến A-Tỳ-Đạt-Ma Luận Thư thì thật “vô pháp khả thi”. Song, đối với những vấn đề như thế tác giả xử lý một cách rất có phương pháp và khéo léo, nghĩa là, tác giả chỉ nắm lấy những điểm chủ yếu rồi tóm tắt và phê phán cái ý chính của vấn đề khiến cho người đọc, nếu nhẫn nại một chút, ai cũng có thể có được một khái niệm đại cương về các vấn đề ấy, bởi thế tôi cho đây là một cuốn sách rất có giá trị, không những về phương diện tư tưởng, mà cả về phương diện tổ chức và phương pháp nghiên cứu mà những ai hằng lưu tâm tìm hiểu Phật pháp không thể không đọc qua.

Phần nội dung của cuốn sách được chia thành hai bộ phận lớn là TỔNG TỰ và BẢN LUẬN. Trong phần TỔNG TỰ gồm có năm TIẾT, cho chúng ta thấy sự dị, đồng giữa Nguyên Thủy Phật Giáo và A-Tỳ-Đạt-Ma Phật giáo như thế nào, sự phân phái và A-Tỳ-Đạt-Ma của các phái ra sao, A-Tỳ-Đạt-Ma Luận Thư bắt nguồn từ bao giờ, quá trình phát đạt của chúng ra sao và yếu nghĩa của A-Tỳ-Đạt-Ma là gì, v.v… Trong phần BẢN LUẬN gồm có sáu Thiên lớn: Thiên thứ nhất, Phật Đà Luận cho thấy cách nhận xét của các học giả A-Tỳ-Đạt-Ma về sự xuất hiện của đức Phậtthế gian này, luận từ Bồ Tát suốt đến Phật Thân Quan. Thiên thứ hai, yếu tố thành lập vũ trụ, thuyết minh về vũ trụ vạn hữu đựơc thành lập như thế nào, thuyết minh từ bản chất tồn tại các loại yếu tố, cho đến Nhân Duyên Luận. Thiên thứ ba là Thế Giới Quan, trước hết, trong phần Tổng Luận, nói rõ về định nghĩa Thế Giới Quan, kế đó, thuyết minh Thế Giới Quan của Phật giáo nguyên thủy, Thế Giới Quan của A-Tỳ-Đạt-Ma, rồi tiến lên bước nữa, lại từ Thế Giới Quan của Bà La môn nói đến Thế Giới Quan của Phật giáo, Thiên thứ tư Tâm Lý Luận, từ cái gọi là tự thể của tâm, tướng nhất của tâm, tác dụng của tâm,v.v… để nói về những hoạt động tâm lý phức tạp của người ta, như tình tự, ý chí, cảm giác, mộng mị và phát cuồng, tất cả đều được thuyết minh một cách tường tận. Thiên thứ năm Luân Lý Luận trong đó chia ra tám CHƯƠNG, nói rõ về hành vi đạo đức và do hành vi mà có luân hồi, ba tính thiện, ác, vô ký, mối quan hệ giữa ba tính và các dụng của tâm ra sao, hành vi đạo đức là gì, tướng trạng của nó như thế nào, do nghiệp thiện ác, mà có quả báo sướng, khổ ra sao, tướng trạng luân hồi như thế nào, sự quan hệ giữa hình thức luân hồiDuyên Khởi Luận, và Mười Hai Nhân Duyên Luận là hình thức luân hồi, v.v… Đứng trên lập trường tôn giáo học mà nhận xét thì đây là một Thiên rất trọng yếu, Thiên thứ sáu, Tu Đạo Luận cho ta thấy tại sao phải tu đạo, nguyên tắc tu đạo là gì, sau hết luận qua về Thiền Định. Rất tiếc Thiền này chưa hoàn tất, tất cả vấn đề như: tâm lý quan có liên quan với Thiền, lý tưởng luận, phương pháp luận, và mục đích luận v.v… đều chưa được bàn tới, đối với người đọc, đây là một điều rất đáng tiếc.

Viết tại Bảo Đảo, Phúc Nghiêm Tinh Xá

Ngày 6 tháng 6 năm Dân Quốc thứ XXXXVI.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49719)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34616)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33436)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43910)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57037)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47545)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39414)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38467)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52924)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36591)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32234)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40449)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43474)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31440)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46699)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36179)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28686)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29217)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31881)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28804)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33351)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29117)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60971)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39725)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26653)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29646)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37357)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40075)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26828)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42644)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37272)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28278)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28891)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26389)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27156)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26180)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34612)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27797)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30461)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33275)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28552)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30059)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25476)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21839)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51282)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26710)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28617)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27691)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24344)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27452)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31918)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30175)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27691)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35428)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27434)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30000)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31762)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23011)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24176)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23012)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant