Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiên Thứ III: Thế Giới Quan

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 12477)
Thiên Thứ III: Thế Giới Quan


Thiên Thứ III: Thế Giới Quan

CHƯƠNG I


TỔNG LUẬN

1- ĐỊNH NGHĨA THẾ GIỚI QUAN

Thế giới quan nói ở đây không ý nghĩa là sẽ luận về bản chất, nguyên nhân thành lập, hay ý nghĩa của thế giới, bởi vì tất cả cái đó đã được trình bày ở thiên thứ hai, trong đề mục Vũ trụ quan rồi. Mà thế giới quan nói ở đây cũng không có ý nghĩa như Weltanschauung hay cosmology, mà là về thế giới khởi nguyên luận, và thế giới hiện tượng luận xem A Tỳ Đạt Ma đã khảo sát như thế nào: đó là vấn đềchúng tôi muốn bàn qua. Có thể nói đây không phải là vũ trụ thực thể luận, mà là vũ trụ hiện tượng luận về mặt sự thực.

2- THẾ GIỚI QUAN CỦA PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

Đối với vấn đề này, như thường lệ, trước hết phải bắt đầu từ thái độ của Phật giáo nguyên thủy. Như đã nói nhiều lần, mục đích của Đức Phật là ở việc "Chuyển mê khai ngộ", nhưng để đạt đến chuyển mê khai ngộ, Đức Phật chủ trương "trước hết phải nhìn thẳng vào sự thực". Nếu không nhìn vào sự thực mà mong cấu tạo thành đối tượng tôn giáo thì không thể bảo là sự khai ngộ chân thật được. Chính do ý nghĩa ấy mà Đức Phật đối với thế giới sự thực, có thế giới quan. Điều này tưởng không cần nói ai cũng hiểu.

Song, có điều chúng ta cần chú ý là: Phật tuy chủ trương như thế, nhưng cái gọi là "như thực tri kiến" của Phật không phải chuyên lấy việc truy cứu sự thực làm chủ, mà là đối với thế giới sự thực phải phê phán giá trị của nó một cách chính đáng. Là vì sự phê phán chính đáng về giá trị của thế giới sẽ trực tiếp cho chúng ta những nguyên lý chỉ đạo cho yêu cầu tôn giáo, còn truy cứu sự thực thì không những rất gián tiếp mà còn có khi vì quá câu nệ vào sự truy cứu ấy mà sao nhãng sự thực tu vốn là nhu cầu tất yếu của tôn giáo. Do ý nghĩa ấy nên Đức Phật tuy chủ trương "nhìn thẳng vào sự thật", nhưng nếu một sự kiện nào không có liên quan trực tiếp đến việc giải thoát mà ta cứ cố lưu tâm chú ý, thì Phật cũng ngăn cản. Thế giới này có biên tế hay không biên tế? Thân, tâm là một hay khác? Người sau khi chếtlinh hồn hay không? Đối với những vấn đề đó Phật không trả lời. Cho nên, đứng về phương diện thế giới quan mà nhận xét thái độ của Phật, thì Phật tuy lấy thế gian làm đối tượng quan sát, nhưng, đối với thế giới vật lý, sinh vật hiện tượng, có thể nói Phật đã không quan tâm mấy. Bởi thế, nếu ai bảo Đức Phật đã luận cứ tất cả sự tượng từ thiên văn, địa lý đến động vật, thực vật, thì, dĩ nhiên, đó là sự hiểu lầm rất lớn.

Nhưng thế giới hiện tượng luận (quan sát về thế giới vật lý, và thế giới sinh vật) của Phật giáo cứu kính đã phát sinh như thế nào? Khi Phật nói về giá trị của thế giới, tuy không phải lấy thế giới sự thực làm mục đích, nhưng có khi không thể tránh khỏi đụng chạm đến nó. Nếu lìa sự thật mà chỉ bàn đến giá trị thì điều đó không thể nào làm được. Cho nên, khi Phật thu dụng thế giới quan đương thời được lưu hành mà nói về núi Tu Di, đề cập đến thuyết Nam diêm phù đề, nói đến địa ngục, quỷ thần v.v... thì hiển nhiên, không nhiều thì ít, đã đụng chạm với vấn đề sự thực, và đó là khởi đầu của sự quan sát về thế giới sự thực của Phật giáo. Điều này tuy có vẻ vụn vặt, nhưng trong các kinh điển được coi là xưa nhất đã thấy rải rác rất nhiều. Có điều đáng tiếc là cho đến nay chúng ta vẫn chưa được biết những điều đó được thu dụng vào thời đại nào? Và thế giới quan được được lưu hành về phương diện nào? Nhưng điều đáng tin cậy nhất là Đức Phật trong khi thuyết minh, thường đã thu dụng thế giới quan ở thời đại Phật, hoặc thế giới quan được lưu hành ở các địa phương khác. Tại sao? Vì chính cả ngay sự thuyết minh đó cũng quyết không phải mục đích của Phật, cho nên không thể cho đó sáng kiến của Phật, cũng vì lý do ấy.

3- THẾ GIỚI QUAN CỦA A TỲ ĐẠT MA

Điều chắc chắnthế giới quan sự thực của Phật giáo nguyên thủy là nói theo học thuật thường thức của đương thời. Do đó, theo ý nghĩa này, thế giới quan của Phật giáo vốn đã cổ kính, lại càng vó vẻ cổ kính hơn, bởi vì tự nó đã chẳng có mấy đặc sắc. Có lẽ thế giới quan sự thực này Đức Phật đã cải tạo ít nhiều quan niệm đương thời để biến nó thành của Phật giáo, vì đặc sắc của Phật giáo vốn là thu dụng những tư tưởng thời bấy giờ rồi biến đổi để trở thành một trào lưu Phật giáo. Nhất là đến các vị luận sư của A Tỳ Đạt Ma dần dần đã coi thế giới quan này là một vấn đề tự thân cần phải luận cứu, và cũng đã dần dần biến cải nó thành một trào lưu Phật giáo.

Chủ ý của Phật giáo từ xưa vẫn cho rằng ta có thể điều hòa giữa thế giới quan luân lý tâm lýthế giới quan sự thực. Nhưng một khi đã tiến đến giai đoạn được cải tạo thì tất cả không còn bị hạn chế trong cái thế giới quan nhất ban của đương thời nữa. Tức là, ngoài thế giới quan của Bà La Môn giáo, của Kỳ Na giáo, cuối cùng người ta đã thấy thế giới quan của Phật giáo cũng được thành lập thành một dòng riêng. Do ý nghĩa ấy, khi nghiên cứu sự phát đạt của thế giới quan nhất ban của đương thời, mặt khác, đồng thời, lại phải cố gắng tìm hiểu cái quá trình và nguyên do phát đạt của chính Phật giáo nữa.

4- TÀI LIỆU VỀ THẾ GIỚI QUAN

Song, những tài liệu liên quan đến sự phát đạt của thế giới quan Phật giáo như thế nào? Dĩ nhiên, nếu đề cập đến tất cả thì rất nhiều, ở đây chúng tôi chỉ nêu lên những tài liệu chủ yếu mà thôi.

Trước hết là tài liệu rải rác trong A Hàm Bộ, nhất là những tài liệu nhất trí giữa Hán Văn và Ba Li. Những tài liệu này tuy không thể bảo là nguyên thủy, nhưng ít ra chúng cũng có thể được coi là gần với nguyên thủy. Nếu sưu tập thêm, thêm ngoài Trường A Hàm, Trung A Hàm ra, trong Tạp A HàmTăng Nhất A Hàm cũng có rất nhiều. Nhất là trong A Ân Cô Tha Lạp bằng văn Ba Li hiện có rất nhiều tài liệu (chẳng hạn trong Anguttara I, p. 227 và V, p. 59 v.v... nói: "Một mặt trời, mặt trăng chiếu khắp một thế giới, một nghìn thế giới cũng như thế. Trong nghìn thế giới, có nghìn mặt trời, nghìn mặt trăng, nghìn núi Tu Di, nghìn Diêm Phù Đề, nghìn Câu Đa Ni, nghìn Uất Đan Việt ...). Trước tiên chúng tôi hãy căn cứ theo những tư liệu này để nghiên cứu thế giới quan của Phật giáo nguyên thủy, nhưng đồng thời, chúng tôi sẽ không quên đem so sánh với thế giới quan đã phát đạt sau này.

Với dụng ý trên đây nên bước thứ hai phải nghiên cứu những tài liệu còn truyền lại trong văn Ba Li. Phạm ngữ và Hán Văn. Tựu trung, về phương diện Ba Li thì chủ yếu là Bản Sinh Đàm (hay Bản Sinh Kinh) và phần chú thích của nó, đây tức là tài liệu Bản Sinh Đàm (VI, p. 125, và p. 432), hoặc là tài liệu trong A Tha Sa Li Ni v.v... Về phương diện Phạm ngữ thì có Thiên nghiệp thí dụ, Đại Sự (tham chiếu Kirfel; Die Kosmographie der Inder S.186) v.v... Nhưng tài liệu trọng yếu nhất về vấn đề này là bản Hán dịch Kinh Lâu Thán (kinh Thế Khởi). Bộ kinh này được dịch từ Trường A Hàm, quyển 18 đến 20 (do Phật Đà Da XáTrúc Phật Niệm cùng dịch vào thời Hậu Tần). Những bản dịch khác thì có Khởi Thế Kinh, 10 quyển (do Xà Na Quật Đa dịch đời Tùy); Thế Nhân bản kinh, 10 quyển (do Đạt Ma Cấp Đa dịch), cũng đời Tùy). Tất cả có các phẩm sau đây.

1. Diêm Phù Đề Châu phẩm; 2. Uất Đan Việt phẩm; 3. Chuyển Luân Thánh Vương phẩm; 4. Địa ngục phẩm; 5. Long Điểu phẩm; 6. A Tu Luân phẩm; 7. Tứ Thiên Vương phẩm; 8. Đao Lợi Thiên phẩm; 9. Tam Tai phẩm; 10. Chiến Đấu phẩm; 11. Tam Trung Kiếp phẩm; 12. Thế Bản Duyên phẩm.

Tất cả những tài liệu trên đây được thành lập vào thời gian nào thì điều này vẫn chưa được rõ lắm, nhưng có điều chắc chắn chúng là những sản vật của thời kỳ mà nền thần học của A Tỳ Đạt Ma đã được xây dựng.

Trong lần kết tập thứ tư, những kinh điển thuộc loại này được phụ vào Trường A Hàm (lúc đầu, kinh văn về thế giới quan đích xác đã thuộc một bộ loại, điều này cứ xem có hai bản dịch khác cũng đủ rõ). Do đấy thế giới quan Phật giáo đã được thống nhất, về hình thức tuy đã nhất định, nhưng nếu đem so sánh nó với những sự tập hợp sau này, thì về nhiều phương diện, nó vẫn chưa được luận cứu đến.

Thế Khởi kinh, về mặt thật chất, tuy là A Tỳ Đạt Ma, nhưng trên danh nghĩa, thì vẫn thuộc Khế Kinh. Tuy nhiên về danh nghĩa, nếu đặt vào địa vị A Tỳ Đạt Ma thì đó chính là "Phật thuyết lập thế A Tỳ Đàm luận (10 quyển, do Châu Đế dịch: Đại Chính 32, trang 173 – 226). Bộ luận này chia các chương thành 25 phẩm đối lại với 10 phẩm trong kinh Thế Khởi. Đó là:

1. Địa Động phẩm: 2. Nam Diêm Phù Đề phẩm; 3. Lục Đại Quốc phẩm; 4. Dạ Xoa Thần phẩm; 5. Lậu Xá Kỳ Lợi Tượng Vương phẩm; 6. Tứ Thiên Hạ phẩm; 7. Số Lượng phẩm; 8. Thiên Trụ Xứ phẩm; 9. Hoan Hỷ Viên phẩm; 10. Chúng Xa Viên phẩm; 11. Ác Khẩu Viên phẩm; 12. Tạp Viên phẩm; 13. Ba Lợi Dạ Đa Viên phẩm; 14. Đề Đầu Lại Tra Thành phẩm; 15. Tỳ Lưu Lặc Xoa Thành phẩm; 16. Tỳ Lưu Bác Xoa Thành phẩm; 17. Tỳ Sa Môn Thành phẩm; 18. Thiên Phi Thiên Chiến Đấu phẩm; 19. Nhật Nguyệt Hành phẩm; 20. Vân Hà phẩm; 21. Thụ Sinh phẩm; 22. Thọ Lượng phẩm, 23. Phẩm Địa Ngục (trong đó có 10 phẩm nói 11 địa ngục); 24. Tiểu Tam Tai phẩm (trong đó lại có Tật Dịch Đao Binh và Cơ Ngã Ba phẩm); và 25. Đại Tam Tai phẩm (hỏa tai).

Nội dung các phẩm trên đây là lấy thế giới hiện tượng luận làm nền tảng để nói về những hoạt động của các loài hữu tình trong đó. Tuy mang cái tên là "Phật thuyết" nhưng thật ra nó đã được các vị luận sư của A Tỳ Đạt Ma sau này chỉnh lý, do đó, chắn chắn ta có thể coi nó đã được chế tác theo kinh Thế Khởi.

Thế giới quan của Phật giáo, đến đây, đã dần dần được chỉnh lý, chế tác và đến một trình độ nào đó, được xử lý như một đề mục độc lập để rồi cuối cùng đã được thống hợp thành một phân khoa trong các A Tỳ Đạt Ma luận thư. Trước hết là Thi Thiết luận đã làm việc ấy. Thi Thiết luận bản Hán dịch tuy chỉ có một phẩm Nhân Thi Thiết gồm 7 quyển (Đại chính, 26), nhưng ở Tây Tạng, ngoài Nhân Thi Thiết ra còn có Nghiệp Thi Thiết và Thế Gian Thi Thiết ba phẩm. Trong phần phụ lục của hai phẩm đầu, De la Valleepoussin giới thiệu tác giảThế Thân và Xưng Hữu. Phẩm Thế Gian Thi Thiết tức là luận về Thế giới quan mà chủ yếu là căn cứ vào kinh Thế Khởi trong Trường A Hàm và lấy đó làm phong thái luận cứu của A Tỳ Đạt Ma. Điều này đã được thừa nhậnthời đại Long Thụ, cho nên trong luận Trí Độ quyển 2 có nói như sau:

"Có người cho rằng trong sáu phần A Tỳ Hàm thì Phân Biệt Thế Xứ Phận thứ 3 gồm 8 phẩm (Kinh Lâu Thán cũng đặt vào phần thứ 3 trong sáu phần) là do Mục Kiện Liên trứ tác (Đại Chính, 25, trang 70, thượng)".

Nghĩa là, trong sáu bộ A Tỳ Đạt Ma (Lục Túc Luận của Hữu Bộ?), Thi Thiết Luận được đặt vào hàng thứ 3, mà phần chú thích thì căn cứ vào Kinh Lâu Thán, cho nên, về điểm này, đã ám chỉ luận Thi Thiết đã được thoát thai từ kinh Thế Khởi trong Trường A Hàm. Vả lại, trên thực tế, đem đối chiếu giữa Thế Khởi Kinh và Thế Gian Thi Thiết, người ta thấy có rất nhiều điểm nhất trí: đó là một sự thật không thể phủ nhận. Điều này chúng tôi đã trình bày qua trong "A Tỳ Đạt Ma Luận Nghiên Cứu", thiên thứ 3.

Về Hán dịch, luận Thi Thiết tuy chưa được truyền một cách toàn thể, nhưng tại Ấn Độ, nó mang một ý nghĩa rất trọng yếu, không những là một trong Lục Túc luận của Hữu Bộ, mà đối với các bộ khác, nó cũng rất được coi trọng. Cho nên, Thế Gian Thi Thiết luận đã được coi như một quyền uy về thế giới quan của Phật giáo. Nhất là trong Hữu Bộ Tôn, tức là trong các luận bộ khác, cũng đề cập đến thế giới quan (chẳng hạn như tập Tập Dị Môn Túc luận, quyển 11, thuyết minh về ngũ thú, quyển 17, thuyết minh về Thất Thức Trụ, quyển 19, thuyết minh về Cửu Hữu Tình Cư; rồi đến Pháp Uẩn Túc luận, quyển 10 đến 12 thì có Căn phẩm, Đa Giới phẩm, Duyên Khởi phẩm; Và Thức Thân Túc luận quyển 2 đến 3 thì có Bổ Đặc Già La Uẩn; sau hết, Phẩm Loại Túc luận, quyển 6 nói về Dị Sinh Pháp, và quyển 8 thuyết minh về Cửu Hữu Tình Cư, v.v...). Đến khi tập hợp lại thì, về thế giới quan, luận Thi Thiết được coi là đặc biệt trọng yếu. Luận Đại Tỳ Bà Sa, vì là giải thích luận Phát Trí, nên không có chương đặc biệt về thế giới quan. Tuy nhiên, cũng thỉnh thoảng có chỗ nói đến thế giới và, về điểm này, đã lấy tài liệu từ Thế Gian Thi Thiết. Trong luận Pháp Thắng A Tỳ Đàm Tâm tuy không có chương nào nói về thế giới, nhưng trong luận A Tỳ Đạt Ma Câu Xá của Thế Thân, vốn là tập Đại Thành của Pháp Thắng A Tỳ Đàm Tâm luận, thì trong chương thứ 3, có lập một phẩm là Thế Gian phẩm mà tôi cho rằng đã phỏng theo thể tài của luận Thi Thiết kể trên. Mà tinh thần phê bình của luận Câu Xá tựa hồ còn triệt để hơn cả tinh thần đó trong Đại Tỳ Bà Sa, và, nếu đem biểu hiện nó vào thế giới quan trong Thế Gian phẩm thì, theo một ý nghĩa nào đó, có thể nói nó đã đạt đến điểm cao nhất trong các A Tỳ Đạt Ma luận thư. Chính vì thế mà xưa nay hễ cứ đề cập đến thế giới quan của Phật giáolập tức người ta nghĩ ngay đến Thế Gian phẩm trong luận Câu Xá. Biện Duyên Khởi phẩm trong Thuận Chính Lý luận, hoặc Hiển Tôn luận chắc chắn là đã dựa theo những tài liệu trên đây làm nền tảng tiêu chuẩn.

5- SỰ PHÂN LOẠI THẾ GIỚI

Trước khi đi sâu vào đề tài chính, tôi tưởng cần nói qua về phương pháp phân loại thế giới đã.

Trong Phật giáo, thế giới (tức thế gian) có hai nghĩa: một là vật khí thế gian, và một là hữu tình thế gian. Khí thế gian là chỉ nơi cư ngụ của các loài hữu tình, tức thế giới vật khí; còn hữu tình thế gian là chỉ cái tổng thể của sinh vật cư ngụ trong thế giới vật khí này. Hai cái đó tuy vốn không thể rời nhau, nhưng để tiện cho việc quan sát nên chia thành hai loại như thế: đó là cái thông lệ của nền giáo học Phật giáo. Do đó, chúng tôi tưởng cứ theo cách phân loại trên đây để quan sát thế giới quan của Phật giáo cho tiện lợi. Song, thế giới quan của Phật giáo vốn quan sát cái gọi là "Hữu tình thế gian", vì đó là chủ yếu, nên trong Khí Thế Gian luận cũng bao hàm cả Hữu Tình luận: điều này tưỏng không cần nói ai cũng hiểu.

6- SÁCH THAM KHẢO

Khi nghiên cứu về vấn đề này, ngoài những tư liệu đã nói ở trên ra, những sách sau đây cũng là những tài liệu chủ yếu cần tham khảo:

a) Viên Huy, Câu Xá luận tụng sớ, quyển 8 đến 12.

b) W. Kirfel, Die Kosmographie (2te Abschnitt, Die Kosmographie der Buddhisten) 1920 Bonn.

c) Hastings, Encyclopaedia of Religion and Ethics (vol. IV, phương pháp. 129 – 138); Cosmogony and Cosmology (Buddhist) by De a Valleepoussin.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49724)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34618)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33440)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43913)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57043)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47558)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39414)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38468)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52927)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36593)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32235)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40455)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43474)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31441)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46702)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36195)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28690)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29225)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31883)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28805)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33355)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29120)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60975)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39746)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26662)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29653)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37358)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40078)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26831)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42644)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37273)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28281)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28891)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26389)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27157)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26180)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34621)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27797)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30465)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33275)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28554)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30060)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25482)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21840)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51284)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26715)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28617)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27694)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24344)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27452)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31918)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30176)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27695)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35430)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27434)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30002)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31763)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23011)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24176)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23013)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant