Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiên Thứ V: Luân Lý Luận

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 12170)
Thiên Thứ V: Luân Lý Luận


Thiên Thứ V: Luân Lý Luận

CHƯƠNG I

TỔNG LUẬN

1- Những điều chúng tôi đã trình bày ở trên, tuy chưa được hoàn bị; nhưng đối với tâm-ký-quan nhất ban của các A-tỳ-đạt-ma-luận-thư như thế cũng đã nói lên một cách đại thể rồi. Song, như chúng tôi đã thường nhắc đi nhắc lại, là mục địch của tâm-lý-luận Phật-giáo không phải chỉ luận về hoạt động tâm-lý suông, nhưng là phân tích và quan sát những hoạt động tâm lý để hỗ trợ cho việc tu-dưỡng của người ta. Do đó, tâm-lý-luận của Phật-giáo rốt cục là tâm-lý-luận luân lý, còn như tâm-lý-luận nhất ban chẳng qua chỉ là một đạo-trình đưa đến mục đích đó mà thôi. Từ đây, để ứng dụng nhất ban-luận ở trên, chúng tôi muốn bàn đến luân-lý-luận và tu-đạo-luận. Song, trên giáo-tướng của Phật giáo, cái gọi là luân-lý-luận và tu-đạo-luận, và tâm-lý-luận (Ðại-chính, 27, trang 8, hạ) nói, Pháp-Cứu cho tâm và tâm-sở chỉ là sự sai biệt của tư, tức những tướng của tác-dụng ý-chí; Giác-thiên thì cho tâm, tâm-sở, thể của nó là tâm. Ðối với những ý kiến này mà đề xướng tâm-tâm-sở-biệt-thể-luận, đứng đầu Tích-lan Thượng-Tọa-Bộ, rồi đến Hữu-Bộ và tất cả các phái khác chủ-trương cơ-giới chủ nghĩa, tức là các học phái muốn phân tích các pháp để quan sát một cách máy móc, là những nhà biệt thể luận. Ai cũng biết trong Thành-thật-luận quyển 5 (thứ 60-64), vì có đề cập đến vấn đề này nên ở đây hãy tạm đưa ra lý do xem sao. Theo đó thì chính Tành-thật-luận chủ-trương nhất-thể-luận, lý do này đã được trình bày rồi. Thứ nhất, xem trong các kinh văn Phật nói (A-Hàm-Bộ), tuy thường đề cập đến nhiều tâm, nhưng ngoài tâm ra, không có lập luận về tâm sở. Mặc dầu tựa hồ có nói đến tâm-sở nhưng suy cứu đến ý nghĩa thì đó chẳng qua chỉ là thuyết minh sự sai biệt của những tác dụng tâm mà thôi (đại ý của phẩm Vô-Số thứ 60). Nói thức, nói giác, nói tưởng, tóm lại, chẳng qua chỉ là bất đồng về danh xưng chứ thật thì không ngoài tác dụng nhận thức của tâm; không những thế, ngay đến thụ, tức cảm tình, nếu coi nó là ý thức, thì đương nhiên nó cũng tức là “biết” (do đó, tuy nói khổ, lạc thụ, nhưng nó là một loại “biết”). Minh-vô-số-phẩm 64, Ðại-chính, 32, trang 276, thượng). Như vậy, tác dụng của tâm tuy có nhiều thứ, rốt cuộc cũng chỉ là đồng tướng của tâm (tác dụng duyên lự) và bất luận loại nào cũng chỉ là sự sai biệt của cùng một tâm (minh vô-số-phẩm 64) đó là chủ trương của các nhà nhất-thể-luận (tâm, tâm-sở-luận) tự thân là một để mục hơi khác nhau cho nên ở đây, một mặt lấy tâm-lý-luận làm cơ sở, một mặt lại chiếu theo những hoạt động tâm-lý biểu-hiện thành hình thái thực tế luân lýtu đạo để nói lên cái ý nghĩagiá trị chủ yếu của nó.

Nhưng, trước hết cần phải nhận-xét một cách tổng quát để hiểu qua luân-lý-luận của A-tỳ-đạt-ma trước khi đi sâu vào đề tài chính.

2- Trong tất cả các tôn-giáo trên thế-giới, Phật-giáo là một tôn-giáo có sắc thái luân-lý sâu đậm nhất. Trong số các học giả Tây-phương có người cho rằng, so với Bà-La-Môn-giáo, Phật-giáo là một phái đặc biệt chú trọng về vận động luân-lý. Do đó ta thấy Phật-giáo rất trọng luân-lý. Theo Phật, nếu người ta muốn đạt đến cảnh-giới giải thoát tối cao thì trước hết phải từ phương diện tiêu-cực, lánh tất cả mọi việc thiện: đó là điều kiện tất yếu. Ai cũng biết bốn câu kệ trứ danh “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo” – tránh mọi điều ác, làm các việc thiện, giữ tâm trong sạch: đó là lời dạy của chư Phật - chỗ lập cước của nó tuy đã được nhận định, nhưng nếu nhận xét nó về phương diện lịch, đối với mỗi quan hệ căn bản giữa giải thoát tối caođạo đức, thì dù cùng trong Phật giáo, nhưng vì tất đã là đồng nhất. Trong thời Phật Giáo Nguyên Thủy, đức phật đã đứng trên lậ trường lánh dữ, làm lành để suy tiến và tưởng thưởng tất cả trình độ thiệu sự. Ðến cảnh-giới tối cao thì biến thành vô-ngã tuyệt đối, hoàn toàn hy sinh tự kỷ cho công cuộc lợi tha, còn đối với những người bất hại mình thì hoàn toàn chấp nhận chủ nghĩa vô-để-kháng (như hạnh Bồ-Tát được thể hiện trong Bản-sinh-đàm). Rồi trở xuống, những việc thiện lấy thù báo ở tương lai làm mục tiêu, hay thiện sự lấy hạnh phúc ở đời này làm mục đích, tất cả chỉ cần đừng làm hại kẻ khác, những việc thiện như thế đều đã được đức Phật suy tiến. Mà tương quan của việc thiện, hoặc đưa đến giải thoát tối cao là nhờ cái gọi là vô-lậu-thiện, hoặc về chính sự quốc-gia, hoặc về nghĩa vụ của quần thần đối với quốc vương, hoặc về sự hòa thuận trong một nhà, về quan hệ giữa vợ chồng, anh em, thầy trò; cho đến về chế độ kinh tế, vệ sinh, v.v… tóm lại, tất cả cái gì là thiện đều được tưởng thưởng. Ðương nhiên, đây không phải nói về phương diện tổ chức có hệ thống, nhưng đức Phật chỉ trả lời những ai đề cập đến những vấn đề đó mà thôi.

Tóm lại, xuất phát từ tâm từ bi và tâm đồng tình, đức Phật đã vì mọi người nói lên tất cả thiện sự, đó là một sự thật mà bất cứ ai đã đọc qua bộ A-Hàm Thánh-điển cũng đều thừa nhận. Cái nguyên nhân làm cho Phật giáo bành trướng trên thế giới tuy có nhiều, nhưng, như lịch-sử đã chứngminh, có nhiều vua chúa, sau khi quy y Phật, đã dùng tâm lý Phật-giáo để lãnh đạochi phối quốc-gia, do đó mà Phật-giáo hưng thịnh: điều này, từ vua A-Dục ở Ấn-Ðộ thuở xưa cho đến nay vẫn còn là một sự thật hiển nhiên.

3- Phật-giáo tuy đặm màu luânlý nhưng nếu nhận xét về phê phán nền luân lý theo lập trường học-vấn, thì do cách nhận xét bất đồng, cũng có nhiều sự giải thích khác nhau. Như đã nói ở trên, mục địch của đức Phật trước sau vẫn là ở chỗ thực-hành, không phải thuyết minh về ý luận, cho nên, những lời dạy của ngài liên quan đến luân lý, đạo đức phần lớn là những lời giáo huấn lâm thời, chẳng qua chỉ lập đi lập lại những đức mục mà thôi. Nếu muốn có một thế hệ nhất-quán thì, về cách giải thích, có thể chia thành nhiều ý kiến khác nhau. Giờ xin đưa ra những điểm chủ yếu như sau:

Thứ nhất, mục đích đầu tiên của Phật giáogiải thoát. Mà giải thoátsiêu việt hiện-thế, do đó luân-lý đạo đức được quy định cho hiện-thế đối với đạo giải thoát tất kính chỉ có quan hệ gián tiếp chứ không có quan hệ trực tiếp. Ðương nhiên, xa lìa ngã chấpcon đường chủ yếu đưa đến giải thoát, nhưng vô-ngã, vô-để-kháng là điều kiện tất yếu của đạo giải thoát tuy chẳng có gì sai khác, song trở xuống như cái gọi là thiện-sự thế-gian, nhận xét theo lập trường đệ-nhất-nghĩa-đế của Phật giáo, chẳng qua cũng chỉ là sự chuẩn bị cho việc tu đạo để đạt đến vô-ngã tối-cao mà thôi.

Thứ hai, nếu đã đạt được giải thoát thì vì mục đích đã hoàn thành nên không còn cần phải câu nệ đạo đức luân lý nữa, cũng như người đã tốt nghiệp Ðại học không còn phải chuẩn bị thi vào đại học nữa.

Thứ ba, luân-lý đạo đức trong Phật giáo tất kính chỉ là phương tiện, là đệ-nhị-nghĩa, nhất là đối với công cuộc cứu tế xã hội, nếu quá chấp nê sẽ trở thành chướng ngại cho việc tu đạo – trên thực tế, luân-lý-luận của Phật giáo có thể giải thích theo nhiều phương diện, nhưng, trong số các học giả Âu-châu, có người cho Phật giáo là cuộc vận động luân-lý, mà cũng có người, trái lại, bảo “trong những tư tưởng căn bản của Phật-giáo hầu như không có sắc thái luân lý”. Ngày nay, nhìn vào Phật giáo Ðại-Thừa, muốn xã hội hóa Phật giáo, thật tế vận động công cuộc cứu tế xã hội, cũng có rất nhiều người, nhận xét theo lập trường bản lai của Phật-giáo, giữ thái độ cho rằng đó chỉ là công việc bên ngoài, đại khái đây là thái độ đã xuất phát từ kiến giải thuần lý-luận.

4- Song, trên đây chỉ là sự nhận xét phiến diện. Ở một phương diện khác, đặc biệt là nhìn vào nhân cách của người sáng lập Phật giáo, người đã đề xướng một nền luân-lý tạp đa làm nhãn mục cho Phật giáo đồ, nếu lấy Phật và niềm tin của ngài trải qua nhiều kiếp làm cơ sở mà nói, thì kết luận trên đây không phù hợp với chân ý của Phật bởi những lý do sau đây: 1) Theo Bản-sinh-đàm, đức Phật, trong các kiếp tu hạnh bồ-Tát, đã từng sinh vào nhiểu loại hữu tình, và bất cứ trong cảnh ngộ nào cũng phát tâm đại-từ-bi-vô-ngã mà tận lực làm mọi thiện sự để giúp chúng sinh, không biết mỏi mệt. Cho đến tất cả việc thế tục, không từ bỏ một việc thiện nào dù khó đến đâu cũng hết lòng vì người giúp đới mà làm, và coi như đó là điều kiện tất yếu để thành Phật. 2) Cuối cùng, đến kiếp này Bồ-Tát đã thành Phật. Tuy Phật đã đạt đến giải thoát tối cao lúc 25 tuổi, nhưng trong suốt 46 năm sau đó đức Phật vẫn tiếp tục không ngừng sự nghiệp cứu người, giúp đời và không một việc thiện nhỏ nhặt nào mà ngài không làm. Trong ý nghĩa ấy, theo giáo-lý Phật-giáo mà nhận xét thì những hoạt động của đức Phật sau khi thành Chính-giác, với đức Phật vẫn là hoạt động của Bồ-Tát, có thể nói, lại đem những kinh-nghiệm ở thời đại Bồ-Tát mà thực thi trong kiếp hiện tại. Từ đó đưa đến kết luận 3,) làm việc thiện để thành phật là chuẩn bị cho việc giải thoát, đòng thời, vì đời mà suy tiến mọi thiện sự, tự mình cũng làm thiện sựtư cách và nghĩa vụ của người giải thoát. Do đó, làm việc thiện tức là đạo đức, bất luận thế gian này xuất thế, bản thân thiện sựphật đạo. Cho nên, đối với giáo lý do đức Phật chỉ dạy không nên giải thích câu nệ theo thần học. Nếu trực tiếp lấy nhânc ách của chính đức Phật làm trung tâm thì, như trên đã nói, đức mục luân lý Phật giáo nào không phù hợp với nhân cách đó cuối cùng cũng bị loại bỏ.

5- Căn cứ theo những tài liệu của Phật giáo nguyên thuỷ mà luận cứu, dù cho cùng một sự trạng, nhưng nếu tiến đến cái tinh thần căn bản thì tự nhiên cũng phát sinh những giải thích bất đồng, do đó mà trên thực tế cũng có thể có những thái độ khác nhau về luận lý. Song, trở lại với vấn đề hiện tạiluân lý quan trong A-tỳ-đạt-ma-luận-thư theo thái độ nào? Vấn đề này, tuy không thể thảo luận theo một cách nhất khái, nhưng, trên đại thể, có thể nói, đạo đức là sự chuẩn bị để hướng tới giải thoát, không ngoài hai loại là đạo đức xuất-gia và đạo-đức tại-gia, khi được giải thoát rồi tất phải trở lại suy tiến những thiện sự thế-gian, hoặc là nghĩa vụ tự mình phải thực hành. Nói cách đơn giản: sinh hoạt đạo đức tuy là nấc thang cần thiết để hướng tới giải thoát, nhưng tự nó không phải là mục đích tối hậu. Trong bộ-phái phật-giáo có một phái mà ai cũng biết là Bắc-đạo-phái cho rằng lòng từ bi cũng là một thứ phiền não, và thậm chí chủ-trương “Phật không có từ bi tâm” (K. V. XVIII, 3). Các nhà Ðại-Thừa sau này bảo đó là kiến giải Tiểu-Thừa và chê họ là những kẻ tự lợi chính cũng vì lý do ấy. Tư-tưởng này, sau khi phật nhập diệt, không được thịnh hành. Nếu cứ theo ý kiến trong Giáo-Hội Phật-giáo thì nhân cách của Phật rất đặc biệt, không phải ai ai cũng hiểu được, bởi thế sự kinh lịch thực tế của Phật dĩ nhiên chỉ biểu hiện trong Bản-sinh-đàm khi tu hạnh Bồ-Tát và lại coi đó gần như là nhân sự mà thôi, họ chỉ chuyên theo với những gì được biểu-diện trong kinh rồi chỉnh lý ít nhiều về mặt lý luận, cho nên, kết quả đã có những lý luận như trên. Ðương nhiên những ý kiến đó tuy như thế nhưng quyết không thể như Ðại-Thừa chê là chỉ khuynh hướng về một mặt siêu-thoát, mà theo lời Phật dạy, trên thực tế, họ cũng rất tận lực đối với các việc thiệnthế gian. Tóm lại, có thể nói, vì đã xuất phát từ kiến-địa thần-học mà đã có kết luận như trên. Ðối lại với ý kiến này là ý kiến thứ hai, tức làm việc thiện ở thế-gian mà xa lìa được tâm-sở đắc thì cũng là phật đạo. Cũng như ý kiến thứ nhất, ý kiến thứ hai cũng cho người đã giải thoát phải lấy sự nghiệp cứu-tế thế-gian làm mục đích tối cao của Phật giáo. Tất cả đều lấy Phật làm lý tưởnghoạt động, đó là chủ trương của Ðại-thừa và chung cực đã đạt đến thuyết-pháp Bất-trụ niết-bàn.

Song ở đây, vấn đề Ðại-thừa chưa được bàn đến, chúng ta chỉ đang luận về đặc trưng luân-lý-quan của Tiểu-thừa-luận-bộ mà thôi. Nếu cần phải bàn thêm nữa thì, như đã nói ở trên, các học phái Tiểu-Thừa tuy không đặt nặng giá trị tối chung của đạo đức, nhưng, vì nó là sự chuẩn bị cho giải thoát nên vẫn rất coi trọng đạo -đức. Về điểm này, cứ xem trong các luận-thư, khi luận cứu các đề mục, đã phân biệt cái gọi là ba tính, lấy thiện, ác, vô-ký làm tiêu-chuẩn trọng yếu nhất mà phê phán giá trị của nó thì đủ rõ. Hơn nữa, như đã nói nhiều lần, cái đặc trưng lớn của các luận-thư là muốn đặt rọng tâm cơ-sở-đạo-đức ở tâm-lý-luận. Như vậy, đề mục luân-lý-luận của Luận-Bộ là chỉnh lý những lời trong kinh, hoặc những đức-mục được biểu-hiện trong Luật rồi cho nó một giải thích nhất định: đó chính là cách xử lý cái mà ai cũng biết được gọi là Nghiệp-phẩm vậy.

Tóm lại, phương pháp xử lý luân-lý-luận của A-tỳ-đạt-ma-luận, về phương diện thích ứng với cái học-phong nhất-ban của A-tỳ-đạt-ma, tuy có thể nói là tính cách lý-luận, nhưng thay vì đi vào chiều sâu thì lại chỉ phân biệt những lời kinh theo chiều rộng và rất chú trọng sự mâu thuẫn về mặt biểu diện. Do đó, nếu chỉ có thế thôi thì tuy vẫn chưa đạt đến chỗ sâu xa của luân-lý-luận của Phật-giáo, nhưng nếu đứng về phương diện quảng-bác mà nói, thì bất cứ ai, nếu không biết qua những điểm đó thì không đủ tư cách để bàn đến luân-lý-luận của Phật-giáo. Tuy nhiên, vì luân-lý-quan của A-tỳ-đạt-ma-luận, nếu đứng trên lập trường luân-lý-luận ngày nay mà nhận xét, thì phương pháp luận cứu của nó rất bác-tạp, bởi thế, nếu ta muốn nghiên cứu nó một cách có thể-hệ thì tất nhiên ta cần phải đặc biệt chú ý đến phương pháp xử lý tài liệu đó.

6- Về tài-liệu và sách tham khảo để nghiên-cứu vấn đề này, thì phần tài liệu, lấy thuyết pháp luân lý trong Ni-kh-da làm trung tâm, mà Nghiệp-phẩm, Phiền-não-phẩm, Trí-phẩm, Ðịnh-phẩm v.v… (không giới hạn trong luận Câu-xá) trong các luận thư là toàn bộ luận thư xử lý về phẩm loại này.

Về sách tham khảo, chúng ta có thể kể vài ba cuốn sau đây:

Ward; TheEthics of Buddhism.

P.Dahlke; Buddhism als Religion und Moral. Zweite

Auflage 1923, Miinchen – Neubiberg.

John Mckenzie, Hindu Ethics. 1922, London and Calcutta.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49726)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34619)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33441)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43915)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57043)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47559)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39414)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38468)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52927)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36593)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32235)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40455)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43476)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31442)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46703)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36195)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28690)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29226)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31883)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28807)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33356)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29122)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60975)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39749)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26665)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29654)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37359)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40080)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26831)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42645)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37273)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28281)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28891)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26391)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27159)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26180)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34624)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27798)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30469)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33276)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28556)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30060)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25486)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21841)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51284)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26716)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28617)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27696)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24345)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27452)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31919)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30177)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27695)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35430)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27435)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30003)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31763)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23012)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24176)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23013)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant