Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương VI: Tướng Trạng Luân Hồi

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 11901)
Chương VI: Tướng Trạng Luân Hồi


Chương VI: Tướng Trạng Luân Hồi

1- GỢI ĐỀ.

Trở lên đã nói rõ quan hệ giữa nghiệp và quả. Do đó, vấn đề lại được đặt ra là: quan hệ đó căn cứ trên tướng trạng luân hồi như thế nào? Nói cách khác, cái lịch trịch di chuyển đời qua đời khác, và tiến lên luân chuyển trong các cảnh giới khác nhau như thế nào?

Trưng theo Phật giáo nguyên thủy thì dĩ nhiên thừa nhận sự thật luân hồi, song sự thuyết minh về lịch trình cụ thể của nó thì vẫn chưa chính xác, bởi lẽ cũng như các vấn đề khác, vấn đề cũng có nhiều cách giải thích bất đồng. Trong cuốn Nguyên Thủy Phật Giáo Tư tưởng Luận, tôi đã cố gắng một cách miễn cưỡng giải thích nó theo lập trường của Phật giáo nguyên thủy; nhưng tôi nhận thấy vẫn còn nhiều điểm có thể giải thích thêm.

Vấn đề này, đến bộ phái Phật giáo, tuy đã phát sinh nhiều dị luận, nhưng nếu nói mộ cách tóm tắt thì, như đã nói ở trên, chia thành hai phái cơ giới chủ nghĩa và sinh cơ chủ nghĩa. Tuy nhiên, trên đại thể, trong A-tỳ-đạt-ma, cái phương pháp giải thích rất có thế lựcthực tại luận hóa và cơ giới hóa. Đó là điểm ta cần phải hiểu trước hết.

2- SINH HỮU, BẢN HỮU, TỬ HỮU.

Theo thuận tự, tôi tưởng trước bắt đầu hãy bắt đầu từ khoảng một đời. Để tiện lợi, ta hãy lấy cõi người làm trung tâm để luận cứu.

Con người trước phải có một thân phận nhất định để thác thai rồi mới sinh ra đời. Nói theo thuật ngữ, thân phận được gọi là sinh hữu. Ở cảnh giới này, bất luận về tâm lý hay vận mệnh, đều thoát khỏi trạng thái hổn độn, nhưng khả năng tính của nó, đối với đẳng lưu quả của tiền nghiệp, tích tính tâm lý hay dị thục quả, đã mang một vận mệnh nhất định rồi, cứ xem sự trình bày trong tiết trước cũng dễ hiểu sự thực này. Từ đó, đứng về phương diện hậu thiên, tích tập kinh nghiệm, do nghiệp đời trước và nghiệp tân tạo, dưỡng thành tính cách mới để chịu nhiều vận mệnh khác nhau, là bản hữu. Đến khi thọ mệnh hết mà gần chết, là tử hữu. Đến đây, vấn đề được đặt ra cho các bậc A-tỳ-đạt-ma Luận sư là: cái chết của con người do nghiệp đời trước mang lại là thọ mệnhnhất định, hay trong đó có sự bất tử? Về vấn đề này, giữa các bộ phái, cứ theo Bà sa (quyển 151, Đại chính, 27, trang 771, thượng) Thí các Thí Dụ Sư chủ trương cái chết phải đến ngẩu nhiên (tức do nghiệp). Theo Tôn Luân luận thì Thuyết Giả Bộ cũng cho rằng “không có cái chết phi thời – không đúng lúc – do nghiệp đời trước dẫn đến”. Cái nguyên nhân đưa đến cái chết của con người như thế nào? Tất cả đều muốn giải thích là do nghiệp đời trước quyếtt định. Lại theo Luận sự thì Vương Sơn Bộ, Nghĩa Thành Bộ v.v…chủ trương “Hết thảy đều do nghiệp – K. V XVII, 3”, như vậy cũng không thừa nhận chết là ngẩu nhiên. Hai phái trên đây chủ trương “với A-la-hán, không có cái chết ngẩu nhiên – K. V. XVII, 2”. Trên thường thức, Thượng Tọa Bộ Hệ Nam phương vẫn thừa nhận có chết phi thời. Điều này, cứ xem sự phê bình chủ trương cho tất cả đều do tác dụng của nghiệp, là dị đoan, thì đủ rõ. Điểm rất thú vịThi Thiết luận[1] thuộc Hữu-bộ, Thanh Tịnh Đạo luận[2][3], có đưa ra bốn loại chết và, trên đại thể, đều nhất trí. Thứ nhất, vì nghiệp lực cảm thọ quả dị thục đã hết; thứ hai, vì nghiệp lực tài phúc đã hết (như chết đói, chẳng hạn); thứ ba, vì cả phúc và thọ đều đã hết; thứ tư, dù phúc thọ chưa hết mà bỏ thọ nghiệp, hoặc vì tai hoạnh mà chết. thứ hai và thứ tư là thừa nhận chết phi thời. Nhất là trong Bà sa quyển 151, nói về sự chết yểu và trung bình, có đưa ra những nguyên nhân như; không tu phạm hạnh (đa dâm), không ăn đúng cách, đúng lượng, không chĩu nghe lời thầy thuốc, không chịu uống thuốc, không tránh tai ách đùa nghịch ngoài đường (như các anh hùng xa lộ ngày nay chẳng hạn) v.v… Chúng hữu tình ở Dục giới, trừ những người đặc thù (Phật, Luân vương, tối hậu, thân Bồ tát, những người thọ mang thai các bậc trên, những người chịu ở địa ngục, những người ở Bắc châu và những người được Phật thụ ký v.v…) còn thừa nhận tất cả đều có khả năng tính hoạnh tử (Câu xá, quyển 5, Bà sa, quyển 151, Đại chính, 27, tr. 771, hạ). Vấn đề thọ mệnh đối với con người là một vấn đề rất thống nhất, đồng thời, sự sống chết có một tác dụng lực bất khả tư nghị, cho nên mới phát sinh những vấn đề như thế. Mà về phương diện không thừa nhận chết phi thời, vì có sự nguy hiểm sa vào Túc Mệnh luận, bởi thế, vẫn thừa nhận nguyên hậu thiên, về Nghiệp luận tuy không hơi triệt để, nhưng vẫn là tưởng pháp gần với chân lý của Phật: theo tôi, đại khái ta có thể nhận định như vậy. thuộc Thượng Tọa Bộ Nam phương, hay A-tỳ-đạt-ma pháp yếu luận

3- TRUNG HỮU.

Như vậy, sinh mệnh dần dần đi đến tận cùng mà mất thọ noãn thức là tử vị chính là luậc đề rất trọng đại về luân hồi. Vấn đề là: cái tướng trạng giữa tử vị và sinh hữu như thế nào? Vấn đề này tuy có phương pháp thuyết minh, nhưng nhận xét về hình thức, hữu tìnhthời kỳ đổi thân phận để chuyển sinh thì vấn đề trạng thái trong thời kỳ chuyển hoán đó như thế nào, đối với việc thuyết minh như luân hồi, nó ý nghĩa rất trọng đại. Phật giáo nguyên thủy thuyết minh vấn đề chuyển sinh thì dễ hiểu, nghĩa là hữu tình chết là do nghiệp đời trước, chết rồi được sinh vào một cõi nào đó trong ba cõi hoặc năm cõi. Nói một cách đơn giản, về phương diện triết học, ngũ uẩn của người ta, lúc đó, tùy theo nghiệp, biến hóa đến một cõi tương đưong, đó là chuyển sinh, chứ chưa khảo sát đến phương diện sâu xatrạng thái trung gian. Song, quan sát dần dần khi tiến đến điểm biến chuyển sinh thành cụ thể để thuyết minh, từ lúc chết đến khi thác thai vào một cõi khác khoảng thời gian ấy bao nhiêu và dung một hình thái nào để sinh hoạt, thì không thể không đi đến những cách thuyết minh bất đồng. Chiếu theo Số luận, nhất là phái Số luận lập riêng cái gọi là tế thân ngoài thô thân làm chủ luân hồi, thì về phương diện xử lý vấn đề luân hồi cụ thể, thật đã là phương pháp thuyết minh rất tiện lợi. Phật giáo, dĩ nhiên, là Vô ngã luận, bởi thế không thể thừa nhận cái gọi là tế thân như của Số luận được. Cứ theo các kinh điển nói, tuy có tính cách thần thoại, thì chúng sinh thác thai khi cha mẹ hòa hợp phải lấy sự hiện tiền của Kiện-đạt-phọc là điều kiện, mà Kiện-đạt-phọc, thật ra là một thứ linh thể, nếu bảo nó là một trạng thái trung gian giữa lúc chết và sinh thì cũng có thể được. Vấn đề này, đến thời đại bộ phái, đã trở nên cực trọng yếu và cũng chia thành hai phái, một cho là có trung gian thái, một bảo không có trung gian thái và giữa hai phái đã triển khai nhiều nghị luận rất sôi nổi. Nói theo thuật ngữ, trung gian thái đó được gọi là trung hữuvấn đề có hay không có trung hữu đã trở thành vấn đề cực đại của Luân hồi luận.

Chiếu theo các văn hiến thì Đại chúng bộ, Hóa địa bộ (Tôn Luân luận), và các nhà Phân biêt luận (Bà sa, quyển 69, Đại chính, 27, trang 356, hạ), chủ trương không có Trung hữu. Thành-thật-luận (quyển 3, Vô trung ấm phẩm 2) và Xá-lợi-phất A-tỳ-đàm luận (quyển 12, Đại chính, 28, trang 608, thượng), đều thuộc phái không thừa nhận Trung hữu).

Còn nữa, theo Luận sự, Thượng Tọa Bộ Nam phương đều là các nhà Vô Trung hữu luận (K, V. VIII, 2). Đối lại các phái trên mà thừa nhậnTrung hữu, theo Phật Âm, là Đông sơn bộ, Chính lượng bộ (K. V, VIII, 2), nhất là Hữu-bộ, vốn là các nhà thực tại chủ nghĩa, cho đến Bà sa luận v.v… đều chủ trương có Trung hữu.

Trước hết hãy bàn đến các nhà Vô Trung hữu luận[4]. Vì thuyết có Trung hữu phát khởi trong Phật giáo giới, cho nên chủ trương của nó đại là tiêu cực. Tức là các nhà chủ trương có Trung hữu dẫn dụng các Khế kinh mà cho rằng đức Phật nhận có Trung hữu, và chỉ lấy sự trích việc giải thích bất đồng các câu kinh làm chủ. Điểm này là thể tài nghị luận của Bà sa, quyển 619, và Câu xá, quyển 8, chủ yếu của luận đề là Phật có nói ba cõi, năm đường (hay sáu đường) nhưng tuyệt không nói đến cõi Trung hữu hay đường Trung hữu (K, V, VIII, 3). Trung hữu, nếu là một thứ sinh hoạt thể, thì lẽ phảicảm giác (xúc) mà nếu đã có cảm giác thì là sinh hữu chứ không cần phải nói trung hữu làm chi. Còn nếu bảo không có cảm giác thì không khác gì hư vô. Bất luận nói cách nào, ngoài sinh hữu ra không cần phải lập thêm trung hữu nữa. Như đâm vào chân, cảm thấy đau đầu, tuy ở chân, tâm chưa tiến đầu, nhưng điều đó há không phải có cảm ứng sao (Thành Thật quyển 3, Vô trung ấm phẩm 25)? Đó là căn cứ của Vô Trung hữu luận được biểu hiện trong Luận sựThành Thật. Đặc biệt thú vịCâu xá (quyển 9) còn dẫn dụng chủ trương của các nhà Phân biệt luận. Theo họ thì từ cõi đời này di chuyển sang một cõi đời khác cũng như hình với bóng, nếu giữa hình và bóng có khoảng cách thì giữa đời này và đời kia cũng có gián đoạn, bởi thế, không cần phải lập ra vị liên tục. Huống nữa, theo kinh nói thì những kẻ cực ác phải đọa địa ngục tức khắc, cứ xem thế thì thấy đọa địa ngục không cần có trung gian thái. Ở đây, ta thấy đã mất hẳn cái ý nghĩa nhất ban về sự tồn tại của Trung hữu. Nếu khảo cứu điểm nàytrên văn hiến[5] thì như Xá-lợi-phất-a-tỳ-đàm luận quyển 12[6] cũng có cùng một chủ trương: đó là điểm ta nên chú ý. Tóm lại, phái này đem nguyên lý luân hồi được nói trong kinh, như “có nghiệp báo, không người làm, ấm này hết, ấm khác nối theo” chiếu theo văn tự để giải thích, muốn không thừa nhậntrung gian đặc thù nào khác. Song, theo sự nhận xét của tôi, quan điểm này, có thể nói, phù hợp của chân nghĩa Phật giáo nguyên thủy.

Đối lại, về phía chủ trương có Trung hữu thì cùng với Số luận có chỗ liên hệ, vả lại, muốn đứng trên lập trường thế tục để đưa ra một cơ sở, mà cơ sở đó cũng vẫn lại là những lời trong các kinh. Chẳng hạn như Thất hữu kinh[7], Kiện đạt phọc kinh[8], Chưởng mã tộc kinh[9], và Ngũ bất hoàn kinh[10] v.v… Tóm lại, muốn lợi dụng các câu kinh mà bảo là có một loại du hồn thể. Theo chỗ nhận xét của tôi, quan điểm này không biết có đại biểu được cho chân ý của Phật không, nhưng đứng về phương diện tín ngưỡng thông tục mà nói, thì nó vẫn có một ý nghĩa tồn tại. Dưới đây, tôi tưởng nên nói rõ qua vể điểm này.

Trước hết hãy nói về hình trạng của Trung hữu. Tùy theo các cõi mà sự thụ sinh của Trung hữu mang hình trạng hình trạng khác nhau. Như thụ sinh làm ngựa thì mang hình ngựa, làm trâu thì mang hình trâu v.v… Tựu trung, Trung hữu thụ sinh cõi ngườiDục giới thì sinh hình trạng giống như đứa trẻ năm, sáu tuổi, các căn đều đầy đủ (Trung hữu của Bồ tát giống như người lớn, đủ ba mươi hai tướng; Trung hữuSắc giới thì hình tượng giống như Bản hữu, và có mặc áo; ở Vô sắc giới không có Trung hữu). Song, những yếu tố tổ chức của Trung hữu, vì cực kỳ nhỏ nhiệm, như tế thân của Số luận chẳng hạn, nên không phải người thường có thể thấy được, duy chỉ có các bậc Thánh và những người đã được Thiên nhãn thông hay các bậc tương như thế mới có thể thấy được. Nghiệp thông và chuyển rất nhanh, tất cả núi sông, đất liền biển cả đều không thể làm trở ngại, bởi thế, trên thực tế, đại khái có thể là siêu việt không gian. Nhưng Trung hữu mang cái đương thể đó trong thời gian bao lâu,và trong thời ấy, sự sinh hoạt như thế nào? Về thời gian thì giữa các bậc luận sư của Hữu-bộ có nhiều dị luận. Bà sa, quyển 70, bảo Thế Hữu cho tối đa là bảy ngày, nếu quá thời hạn ấy mà không được Sinh hữu thì trong Trung hữu cũng có sống, chết. Thiết ma đạt đa thì bảo nhiều nhất là bốn mươi chín ngày. Còn Đại đức lại cho là vô hạn định (Đại chính, 27, trang 316, cột giữa; Câu xá, quyển 9). Trong thời gian này, vật thực của Trung hữu là hương. Do đó, mà Trung hữu còn được gọi là Tầm hương (tìm mùi thơm). Kiện-đạt-phọc tuy là sự tồn tại thần thoạithời đại Phệ Đà, nhưng có liên quan đến kết hôn, từ đó bỗng biến thành nghĩa du hồn, cái gọi là Gandha-arv, cuối cùng đã sản sinh ra Ngữ nguyên luận. Thời gian giữ hình trạng Trung hữu lâu hay mau là do ở nghiệp đời trước và cha mẹ tương lai, lấy sự gặp gỡ làm cơ duyên, nếu là con gái thì đối cha thì cảm thấy thương mến[11], đối với mẹ cảm thấy ghét; còn nếu là con trai thì đối với mẹ cảm thấy thương yêu, đối với cha cảm thấy ghét, cuối cùng lấy đó làm nơi an trụ: đó là thác thai. Lúc ấy, do sự chiêu cảm của nghiệp thông dù có cách xa nghìn vạn dậm đi nữa thì chỉ trong nháy cũng đến nơi; không một sức gì làm trở ngại được. Song, ở đây, vấn đề được đặt ra là: thân Trung hữu cứ nhất định như thế để thụ thân Bản hữu, hay nửa đường có thể chuyển hoặc không thể chuyển? Về vấn đề này, Thí Dụ Sư chủ trương hết thảy nghiệp có thể chuyển, cho nên Trung hữu cũng có thể chuyển (Bà sa, quyển 69, Đại chính, 27, trang 359, cột giữa). Nhưng, Hữu-bộ bảo: giới (cõi), thú (đường), xứ (nơi chỗ) đều không thể chuyển (Bà sa, như trên; Câu xá, quyển 9, bài tụng; “Trung hữu không thể chuyển”). Bà sa, quyển 70 (Đại chính, 27,trang 360, cột trên) nói rằng hữu tình tạo nghiệp cha mẹ không có nhất định. Nói một cách đại thể, đàn ông, đàn bà tuy có nhất định làm cha mẹ, nhưng cũng có khi họ dời xa chỗ ở thì không có cách nào chuyển đến người khác được. Như nói: “Nếu với cha mẹ có thể chuyển thì liền đi đến chỗ cha mẹ khác hòa hợp kết sinh. Nếu với cha có thể chuyển, với mẹ không thể chuyển thì người đàn bà kia tính dù có trinh khiết, giữ gìn năm giới, đầy đủ uy nghi đi nữa cũng phải cùng với người đàn ông khác hòa hợp để cho Trung hữu có nơi kết sinh ngay. Nếu với mẹ có thể chuyển, với cha không thể chuyển, thì người đàn ông kia tính dù hiền lương, giữ gìn năm giới, đầy đủ uy nghi đi nữa cũng phải với người đàn bà khác hòa hợp để cho Trung hữu có nơi đến kết sinh ngay”. Tuy có thể nói như thế, nhưng nếu giải thích thêm, thì cha mẹ duy chỉ vì khoái lạc mà giao hội, trong đó thật đã biểu minh sự hoạt động lớn của ý chí muốn sống rồi. Tiêu Bái Ân Hào Uy Nhĩ bảo trong thanh niên nam nữ chỉ là cái hồn vì con cháu mà thôi,có thể nói, đây là điểm tương đồng rất lý thú. Như thế lúc mới thác thai là bắt đầu thụ sinh. Cái quá trình từ đó đến khi xuất sinh, do chủng loại hữu tình mà có khác nhau, nhưng ở cõi người thì trải qua năm giai đoạn ở trong thai. Năm giai đoạn ấy là: 1- Yết-lạt-giám (hai giọt tinh huyết kết hợp lại), tức bảy ngày đầu; 2- Ngạch-bộ-đàm (thành mụt nhỏ), tức bảy ngày thứ hai; 3- Bế-thi (máu, thịt), tức bảy ngày thứ ba; 4- Kiện-nam (thành thịt cứng), tức bảy ngày thứ tư; 5- Bát-la-xa-khư (thành chi tiết), tức bảy ngày thứ năm. Từ đó trưởng thành dần cho đến khi xuất sinh. Theo tôi, thuyết năm giai đoạn này là giới y học thời bấy giờ đề xướng, Phật giáo bất quá chỉ thu dụng nó mà thôi. Sự xuất sinh này, như đã nói ở trên, do nghiệp đời trước và nghiệp tân tạo mà hình thành những tính cách khác nhau, tao ngộ những vận mệnh bất đồng, để rồi cuối cùng chết đi và sinh trở lại: đó là tướng trạng của sự luân hồi.


[1] Bà sa, quyển 20 (Đại chính, 27, tr. 103, trung) và Câu xá, quyển 5 trích dẫn.

[2] Visuddhimagga VIII. P, 229.

[3] Compendium of Philosophy, p, 119.

[4] Luận cứ của Vô Trung hữu luận thấy trong Thành Thật quyển 3, Vô trung ấm phẩm 25; Câu xá, quyển 8, kinh Tượng dụ; và Bà sa, quyển 69 (Đại chính, 27, trạng 56, hạ).

[5] Trong địa ngụcchư thiên hay các hữu tình hóa sinh, hoặc dùng thuận định thụ nghiệpthụ sinh chủ Vô Trung hữu, đó là ý kiến của Bà sa. Nhưng, Nh7ng các nhà bình giải Bà sa lại không thừa nhận, cho nên Vô Trung hữu chỉ hạn trong Vô sắc giới mà thôi – Bà sa, quyển 69 (Đại chính, 27, tr. 358, hạ); Câu xá, quyển 9 (K, V, VIII, 2).

[6] Thức cuối cùng diệt rồi thì thức đầu sinh ngay, cũng như bóng di chuyển thì mặt trời theo, mặt trời di chuyển thì bóng theo, giữa bóng và mặt trời không có trung gian. Cũng thế, tối hậu thức diệt thì sơ thức sinh liền (Đại chính, 28, tr. 608, thượng).

[7] Xem Trường-a-hàm, Tập báo pháp kinh, quyển thượng, Đại chính, 1, trang 236, trung.

[8] Xem Trung a hàm, quyển 64, Trà đế kinh, Đại chính, 1, trang 769.

[9] Xem Trung a hàm, quyển 37, Phạm chí a diếp hòa kinh, Đại chính, 1, trang 666, cột trên.

[10] Xem Tạp-a-hàm, quyển 27, Kinh thứ 736 và 740 (Đại chính, 3, tr. 196); Trường-a-hàm, quyển 3, Chúng tập kinh (Đại chính, 1, tr. 52, cột dưới).

[11] Bà sa, quyển 70, có nói thế này: “Lúc đó, Kiện-đạt-phọc theo một trong hai tâm mà hiện thành, tức là yêu hay ghét”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49724)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34618)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33440)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43914)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57043)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47558)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39414)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38468)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52927)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36593)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32235)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40455)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43475)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31441)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46702)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36195)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28690)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29225)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31883)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28805)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33356)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29120)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60975)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39746)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26662)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29653)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37358)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40078)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26831)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42644)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37273)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28281)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28891)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26389)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27158)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26180)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34621)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27797)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30466)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33275)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28554)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30060)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25482)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21840)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51284)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26715)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28617)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27694)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24344)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27452)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31918)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30177)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27695)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35430)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27434)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30002)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31763)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23011)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24176)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23013)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant