Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tăng đồ nhà Phật (Hán Việt)

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 34966)
Tăng đồ nhà Phật (Hán Việt)

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Tác giả: Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải
NXB: Tôn giáo
Khổ sách: 14.5x20.5cm
Độ dày: 768 trang

blank

LỜI NÓI ĐẦU

 

Trong khi khảo cứu về Phật giáo và soạn quyển sách này, tôi tự nghĩ mình đối với Phật pháp, cũng như con chim toan chữa lửa.

Chuyện là thế này. Tích nhà Phật có ghi lại rằng thuở trước, gặp một cơn hỏa hoạn thiêu cháy cả núi rừng. Có một con chim thấy vậy, thương xót cho sanh mạng của biết bao loài phải chết trong ngọn lửa dữ, nó bèn vội bay xuống sông, thấm nước cho ướt cánh rồi bay lên giũ lông cho nước rơi xuống đám lửa, những mong làm cho tắt đi. Vẫn biết rằng nước có thể làm tắt lửa. Song nước mà chim kia mang lên đó, thật có thấm tháp vào đâu?

Cũng như thế, cái trí hèn của tôi có khác nào sức của chim kia, mà pháp Phật cũng như nước sông mênh mông kia vậy. Cái trí của tôi liệu đã hiểu được bao nhiêu trong pháp Phật mà mong làm nên chuyện cứu khổ độ sinh? Song, tôi cũng nguyện như chim nhỏ kia, quyết gắng hết cái sức tầm thường này mà rộng truyền pháp Phật vô tận vậy.

Đã tự biết mình như vậy, nên việc tôi biên soạn cuốn “Tăng đồ nhà Phật” này, trong đó có cả phần giới luật của tăng sĩ Phật giáo, chắc chắn sẽ khó lòng mà hoàn hảo được. Tuy vậy, tôi cũng rất vui được cống hiến sức mình để ghi chép ra đây ít nhiều những tư liệu quý giá, giúp cho những ai muốn tìm hiểu Phật pháp sẽ có được chút thuận lợi trên con đường học hỏi cam go này!

Ngoài ra, tưởng cũng nên nói đến một nỗi khó này nữa. Trong hàng tăng sĩ, hẳn không khỏi có đôi vị sẽ phàn nàn rằng: “Trong quyển sách này sao lại có cả giới luật của hàng xuất gia? Đã là chuyện của hàng xuất gia, sao chẳng giữ cho riêng biệt mà lại mang ra trình bày với người thế tục?”

Lời ấy cũng có phần hữu lý. Có lẽ các vị sợ rằng người thế tục vốn không thọ trì những giới luật ấy, nay biết đến thật chẳng ích gì, đôi khi lại khinh thường mà mắc thêm tội. Còn với tăng sĩ thì đã học chữ Hán rồi, có thể đọc ngay bản chữ Hán, chẳng cần phải dịch ra quốc âm.

Nhưng lại cũng có một số ít khác có thể âm thầm e ngại rằng, như thiện nam tín nữ mà hiểu giới luật của tăng sĩ, sẽ mất đi sự kính trọng đối với các ngài nếu các ngài có đôi khi sai phạm, lỗi lầm.

Thiết nghĩ rằng, chúng ta ai cũng yêu chân lý, những gì thuộc về chân lý bổ ích thì chúng ta đều có thể tìm học. Ai dám nói rằng hàng cư sĩ tại gia không cần phải hiểu giới luật? Không đâu, cần lắm chứ. Cư sĩ tại gia mà hiểu giới luật, mới có thể phân biệt được một vị tăng có đức độ hay không, mới có thể tránh xa những kẻ hủy phạm giới luật, và kính mộ nương về theo những vị nghiêm trì giới luật. Lại nữa, ai dám chắc rằng trong hàng cư sĩ tại gia lại không có những người có thể giữ theo một phần lớn trong giới luật? Dù chẳng được hoàn toàn đoan chánh như các bậc cao tăng, nhưng cũng lắm kẻ tuy là hàng bạch y cư sĩtâm trí lại mong muốn thoát trần!

Ngày xưa, lúc chư tăng kết tập kinh điển lần đầu, ngài Ca-diếp có nói rằng: “Hàng cư sĩ tại gia cũng hiểu giới luật như chư tăng. Nếu chư tăng sai sót hoặc bỏ bớt đi những giới nhỏ nhặt, họ sẽ trách rằng vì Phật đã nhập diệt nên chư tăng trở nên bừa bãi, chẳng tuân giữ giới luật.” Theo như lời ấy, người thế tục chẳng phải là cũng nên hiểu biết giới luật đó sao?

Ở một số nước mà ngày nay đạo Phật còn giữ được quy củ nghiêm ngặt và hàng cư sĩ tại gia thông hiểu giới luật, mỗi khi thiện nam tín nữ nhận thấy vị tăng sĩ nào không giữ đúng giới luật, tịnh hạnh, họ liền đến thưa với vị Trưởng lão chủ trì trong chùa. Họ làm như vậy để xây dựng tăng đoàn trong sáng thanh cao. Vì vậy, chư tăng nơi ấy sẽ hội lại mà tra xét, và nếu đúng vậy thì sẽ kịp thời mà trách phạt người phá giới. Được như vậy, người tại gia hiểu giới luật chẳng phải là hữu ích lắm đó sao?

Giới luật là chỗ nương theo của người học đạo. Có nghiêm trì giới luật mới có thể được đạo giải thoát. Vậy nên hết thảy mọi người, nhất là tăng sĩ, phải thường xuyên tụng đọc giới luật. Mỗi khi xem giới luật, khác nào mình tự soi lòng. Như người có soi vào gương mới thấy chỗ dơ trên mặt mà lau rửa. Nếu bỏ phế lâu ngày, tất nhiên khi nhìn vào phải hoảng sợ vì thấy mặt mình dơ nhớp quá lắm vậy. Thường xem giới luật cũng thế, giúp cho mình biết lỗi mà sửa ngay, mới giữ được sự trong sạch, tâm trí được yên vui.

Như vậy, những ai không biết chữ Hán, nay có thể xem trong quyển “Tăng đồ nhà Phật” này, vừa ngắn gọn, vừa rõ ràng, dễ hiểu.

Đọc hiểu giới luật, vừa để giữ mình theo đó, vừa để tìm hiểu thêm về đạo cao thượng, vì giới luật chẳng những là giáo điều, mà cũng là triết lý sâu xa trong đó nữa. Người giữ được giới luật sẽ trở nên trong sạch, minh mẫn, hiểu rộng ra nhiều điều. Vậy nên giới luật cũng là những điều rất nên tìm tòi học hỏi vậy.

Nhật BảnLuật tông là một chi nhánh rất thịnh trong đạo Phật, nhờ các vị cao tăng luôn giữ giới luật một cách chuyên cần, thận trọng. Cùng nhau tin theo lời Phật, quyết hành trì theo đúng giới luật. Các vị tăng đều nhận rằng kẻ noi giữ theo giới luật tức là theo đúng pháp Phật, có thể đắc đạo. Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”

Do nơi giới luật mà có thể giúp người tu giữ cho thân tâm an định. Do nơi thân tâm an địnhtrí tuệ dần dần phát sanh. Do nơi trí tuệ phát sanh mà có thể phá trừ tà kiến, ma chướng, phiền não... hết thảy những ác nghiệp.

Mong sao quyển sách này sẽ giúp ích được phần nào cho những ai muốn bước lên đường tu tập, có thể theo đây mà vạch ra cho mình được một hướng đi đúng đắn lâu dài.

Tháng giêng năm 1934

ĐOÀN TRUNG CÒN

Source: rongmotamhon
Ý kiến bạn đọc
03 Tháng Ba 202008:20
Khách
Con muốn mua cuốn này thì liên hệ ở đâu ạ?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49718)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34615)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33436)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43909)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57037)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47544)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39414)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38463)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52921)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36591)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32232)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40446)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43469)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31439)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46698)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36172)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28684)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29217)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31878)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28799)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33348)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29115)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60969)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39724)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26651)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29644)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37354)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40075)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26826)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42637)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37271)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28278)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28891)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26388)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27156)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26179)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34610)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27794)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30458)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33269)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28551)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30058)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25476)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21836)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51278)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26710)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28609)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27688)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24344)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27452)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31917)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30175)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27687)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35422)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27433)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30000)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31758)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23004)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24170)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23010)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant