Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thập giới của Sa-di

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 18274)
Thập giới của Sa-di

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

SA-DI VÀ SA-DI NI

THẬP GIỚI CỦA SA-DI

Bài này soạn vào thời Đông Tấn của Trung Hoa, khoảng năm 400 theo Dương lịch. Soạn giả là một vị tăng không biết tên. Tuy trong lễ thọ giới vị thầy truyền giới chỉ nêu đại lược, nhưng người xuất gia phải được học kỹ về Mười giới để có thể giữ theo không sai phạm. Bài này giúp hiểu rõ thêm về Mười giới.

1. Sa-di trọn đời không được giết hại người hoặc thú vật. Hãy tưởng đến lòng yêu thương của cha mẹquyến thuộc của người bị hại. Nhớ đến ơn dạy dỗ của thầy và bạn hữu, phải tinh tấn tu hành, cứu độ cho cha mẹ. Phải thận trọng đừng gây hại cho người khác, vì sự ác hại ấy rồi sẽ trở lại hại mình. Thậm chí không làm hại đến cả những con vật nhỏ bé, hết thảy các loài động vật. Hãy làm mọi việc lành, cứu giúp kẻ đói khổ, khiến cho hết thảy đều được an ổn. Lòng nghĩ đến người khác nên không thể giết hại. Nếu nhìn thấy, nghe biết hoặc nghi ngờ sự giết hại một con thú là vì mình thì không thể ăn thịt con thú ấy. Thấy sự giết hại, nên khởi lòng từ, phát thệ nguyện rằng: “Khi tôi thành đạo, nguyện cho trong cõi nước không có sự giết hại.” Cho đến cây cỏ mà không cần dùng đến cũng không vô cớ làm hại. Không được giữ các thứ khí giới như gươm đao, cây gậy, vật sắc nhọn... Không được nuôi dưỡng súc vật, chim chóc để ăn thịt. Không dùng các thứ cung tên, đạn bắn để săn bắt muông thú. Không được nổi lửa gây cháy rừng núi, làm hại đến sanh linh. Không tháo cạn nước ao, hồ hoặc ngăn đường nước đến, hoặc dùng các loại câu, lưới, chài... để đánh bắt, giết hại các loài sống trong nước. Không khai khẩn những nơi rừng núi, đầm lầy để làm ruộng rẫy, trồng trọt ngũ cốc. Phạm vào giới này chẳng còn là sa-di nữa.

2. Sa-di trọn đời không được phạm tội trộm cắp. Chớ tham của người, cho đến vật nhỏ nhặt cũng vậy. Hãy giữ lòng công bằng chánh trực, miệng không nói lời khuyến khích sự trộm cắp. Không được mua bán, thuê mướn nô bộc. Như có người mang đến cho cũng không nhận lấy. Thường vì người khác giảng thuyết về đức không tham lam. Thà bị chặt tay, nhất định không trộm lấy đồ trái phép. Phạm vào giới này chẳng còn là sa-di nữa.

3. Sa-di trọn đời không được cưới vợ, sanh con. Phải tránh xa nữ sắc, kiềm chế lục dục. Không nhìn ngắm gái đẹp, tâm không nghĩ đến việc dâm dục, miệng không nói những lời dâm ô. Không gần gũi những kẻ lẳng lơ, không nghe những lời ngọt ngào khêu gợi. Sa-di nam và nữ phải cư trú ở nơi riêng biệt, không được tìm gặp nhau, không được ngồi cùng thuyền, đi cùng xe. Trên đường gặp nhau không được trao đổi chuyện trò. Không được mượn cớ để đi lại gặp gỡ nhau. Không được thư từ qua lại cho nhau. Không được trao đổi y phục, như người khác phái có cho cũng không được nhận. Như cần gặp nhau, phải có người lớn tuổi chứng kiến, thận trọng chẳng nên đi một mình. Không được ngồi chung hoặc ngủ đêm trong một phòng. Thà tan xương nát thịt cũng không để vướng vào sự dâm dục. Thà là chết trong sạch còn hơn là sống mà phạm giới này. Phạm vào giới này chẳng còn là sa-di nữa.

4. Sa-di trọn đời lấy sự thành tín làm căn bản, không nói lời đâm thọc, lời hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói dối, không nói lời tà vạy. Có chỉ chỗ sai trái của người cũng phải nói một cách trầm tỉnh và đủ chứng cớ. Chẳng chê bai chỗ yếu kém của người khác. Khi thuyết pháp, phải nói cho đúng lý. Thấy người tranh cãi, hãy vô tư đứng giữa mà giải hòa. Phàm trong việc xử thế, dao sắc nằm ngay trong miệng người. Sát hại đến thân thể cũng là do lời ác độc. Nói năng không thận trọng chẳng còn là sa-di nữa.

5. Sa-di trọn đời không được uống rượu. Cho đến không nếm thử, ngửi mùi của rượu. Không bán rượu, không uống thuốc ngâm rượu, không ghé vào quán rượu. Rượu là chất độc, là nguyên nhân của những sự bại hoại, làm cho kẻ hiền phải suy sụp, bậc thánh phải hư hỏng, mang đến các tai ương. Dùng nó thì xa điều lành, gần điều dữ. Thà là uống nước đồng sôi còn hơn là phạm vào việc uống rượu. Phạm vào giới này chẳng còn là sa-di nữa.

6. Sa-di không được dùng các loại hoa, hương thơm, dầu thơm, phấn sáp trang điểm trên thân thể. Mặc che thân là đủ, không tham đắm vào hình thức. Ăn lấy no là đủ, không tham đắm mùi vị. Không nên đi xe, đi ngựa, đi kiệu vì muốn thỏa sự ham thích, vì sự khoái trá của tâm ý. Phạm vào giới này chẳng còn là sa-di nữa.

7. Sa-di trọn đời không được ca, múa, diễn trò... hoặc dự xem người khác ca, múa, diễn trò... Không được chơi âm nhạc, các thứ đàn, sáo, nhạc cụ... làm cho tâm đạo dễ rối loạn. Không được tham gia bất cứ hình thức cờ bạc nào để tranh thắng bại cầu vui, hoặc tranh mối lợi với người khác. Phạm vào giới này chẳng còn là sa-di nữa.

8. Sa-di không được nằm giường cao rộng, chăn nệm tốt, có màn che sáo phủ. Không được dùng gối nệm có kết vàng bạc cùng các thứ lụa là, gấm vóc. Không dùng chiếu đẹp, quạt sơn, phất đủ màu và đồ chưng diện điểm trang. Không học theo các việc đoán thời vận, bói toán, trù ếm, phù phép, xem ngày tháng tốt xấu, xem mu rùa và lá cây để bói xem thời vận may rủi, nghèo giàu, xem tinh tú nhât thực, nguyệt thực, các hiện tượng lở núi, động đất... Không tham gia quốc sự, thuế vụ, binh cơ. Phạm vào giới này chẳng còn là sa-di nữa.

9. Sa-di trọn đời không được ăn phi thời. Từ quá ngọ cho đến bữa sau, không được để đồ ăn vào miệng. Như có muốn đi đâu xa cũng không được ăn thêm. Đã ăn rồi mà có người mời ăn nữa, dù là người có quyền thế, cũng phải từ chối. Phạm vào giới này chẳng còn là sa-di nữa.

10. Sa-di trọn đời không nắm giữ các thứ tiền, vàng bạc, đồ quý giá. Không tàng trữ lương thực, các thứ quý giá. Như có người mang cho cũng đừng nhận. Nếu như có nhận thì không phải để cất giữ, mà là để phân phát cho người nghèo khó.

Ngoài mười giới nói trên, vị sa-di trọn đời còn phải thận trọng trong việc giao du, xử thế. Không được làm bạn với những kẻ kém đức. Không giao thiệp với người làm những công việc bán thịt, đi săn, ăn trộm, uống rượu, vì như vậy chỉ làm tổn hại đến đạo hạnh của mình thôi. Áo cà-sa và bình bát lúc nào cũng giữ bên thân mình. Ngoài giờ thì không ăn, chẳng phải việc đạo pháp thì không nói. Trong khi đang ăn hoặc nằm nghỉ đều không trò chuyện. Chuyên cần suy nghĩ tìm hiểu ý nghĩa những điều đã học, nhớ việc cũ mà suy biết việc hiện nay. Có khi được ngồi xuống liền lo việc tham thiền, đứng dậy liền nhớ việc đọc kinh. Giữ được giới hạnh nhất nhất như vậy mới thật là đệ tử của Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49767)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34645)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33462)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43944)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57096)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47580)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39428)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38489)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52960)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36614)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32252)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40498)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43505)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31476)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46719)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36218)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28717)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29257)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31904)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28847)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33386)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29161)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60999)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39789)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26696)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29691)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37404)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40107)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26858)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42689)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37292)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28306)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28907)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26410)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27177)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26201)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34693)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27827)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30491)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33304)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28575)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30085)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25495)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21858)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51328)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26741)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28637)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27724)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24367)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27471)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31962)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30198)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27720)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35478)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27470)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30027)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31796)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23039)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24194)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23042)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant