Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

V. Một trăm bảy mươi tám pháp Ba-dật-đề

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 11421)
V. Một trăm bảy mươi tám pháp Ba-dật-đề

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

GIỚI LUẬT TỲ-KHEO NI

V. MỘT TRĂM BẢY MƯƠI TÁM PHÁP BA-DẬT-ĐỀ

_ Kính bạch chư đại đức tỷ. Một trăm bảy mươi tám pháp ba-dật-đề này, nửa tháng phải tụng đọc lại một lần, được rút từ trong Giới kinh ra.

1. Như có tỳ-kheo ni nào biết là điều sai sự thật mà vẫn nói ra, phạm vào tội ba-dật-đề.

2. Như có tỳ-kheo ni nào dùng nhiều lời hủy nhục người, phạm vào tội ba-dật-đề.

3. Như có tỳ-kheo ni nào dùng cách nói hai lưỡi, phạm vào tội ba-dật-đề.

4. Như có tỳ-kheo ni nào ngủ qua đêm trong cùng một nhà với đàn ông, phạm vào tội ba-dật-đề.

5. Như có tỳ-kheo ni nào ngủ qua đêm trong cùng một nhà với người nữ chưa thọ giới cụ túc quá ba đêm, phạm vào tội ba-dật-đề.

6. Như có tỳ-kheo ni nào cùng với người chưa thọ cụ túc giới tụng đọc kinh điển, phạm vào tội ba-dật-đề.

7. Như có tỳ-kheo ni nào đem việc phạm tội thô ác của tỳ-kheo ni khác nói với người chưa thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợp do chúng tăng sai khiến.

8. Như có tỳ-kheo ni nào đem việc mình chứng đắc hơn người nói với người chưa thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

9. Như có tỳ-kheo ni nào thuyết pháp quá năm, sáu câu với người phái nam, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợp có một người nữ sáng suốt cùng ở đó.

10. Như có tỳ-kheo ni nào tự tay đào xới đất, hoặc sai bảo người khác làm, phạm vào tội ba-dật-đề.

11. Như có tỳ-kheo ni nào phá hại mầm giống cho đến các loại cây cỏ đang còn sống, phạm vào tội ba-dật-đề.

12. Như có tỳ-kheo ni nào cố ý nói ra những lời quanh co, khúc chiết, không đúng với sự việc, gây phiền toái cho người khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

13. Như có tỳ-kheo ni nào chê bai, nhiếc mắng vị làm tri sự, phạm vào tội ba-dật-đề.

14. Như có tỳ-kheo ni nào tự mình lấy, hoặc nhờ người khác lấy các vật dụng của chúng tăng như ghế, giường, ngọa cụ... mang ra chỗ trống để dùng. Khi dùng xong, trước khi rời đi không dẹp cất lại chỗ cũ, cũng không nhờ người khác dẹp cất lại, phạm vào tội ba-dật-đề.

15. Như có tỳ-kheo ni nào ở trong tăng phòng, tự mình lấy, hoặc nhờ người khác lấy các vật dụng của chúng tăng như ghế, giường, ngọa cụ mà dùng. Khi dùng xong, trước khi rời đi không dẹp cất lại chỗ cũ, cũng không nhờ người khác dẹp cất lại, phạm vào tội ba-dật-đề.

16. Như có tỳ-kheo ni nào, biết chỗ nghỉ của tỳ-kheo ni khác, khi đến sau lại mang ngọa cụ trải ra mà nằm, tự nghĩ rằng: “Nếu bà ấy có chê là chật chội thì cứ việc tránh ta mà đi nơi khác.” Chỉ vậy, không có lý do nào khác, không hợp với oai nghi, phạm vào tội ba-dật-đề.

17. Như có tỳ-kheo ni nào do tức giận tỳ-kheo ni khác, trong lòng không vui, liền xô đuổi hoặc sai khiến người khác xô đuổi tỳ-kheo ni ấy ra khỏi tăng phòng, phạm vào tội ba-dật-đề.

18. Như có tỳ-kheo ni nào ở tầng gác cao, nằm hoặc ngồi trên giường đã bị lỏng chân, phạm vào tội ba-dật-đề.

19. Như có tỳ-kheo ni nào biết là nước có trùng mà tự mình dùng, tưới lên bùn đất, cây cỏ, hoặc sai bảo người khác làm như vậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

20. Như có tỳ-kheo ni nào làm phòng lớn có cửa song, cửa sổ và các vật trang hoàng, chỉ được lợp mái từ hai đến ba lớp. Nếu quá mức, phạm vào tội ba-dật-đề.

21. Như có tỳ-kheo ni nào đến chỗ thí chủ cúng dường một bữa ăn, không có bệnh chỉ được thọ nhận một bữa. Nếu quá, phạm vào tội ba-dật-đề.

22. Như có tỳ-kheo ni nào thọ thỉnh ăn thành chúng riêng, phạm tội ba-dật-đề. Trừ các trường hợp như khi có bệnh, khi may y, khi nhận cúng y, khi đi đường xa, khi đi tàu thuyền, khi đại chúng tụ họp đông đảo, khi các thầy tu ngoại đạo cúng dường.

23. Như tỳ-kheo ni thọ thỉnh cúng dường ở nhà cư sĩ, được ân cần mờ các thứ bánh hoặc lương khô, nếu muốn có thể nhận đến hai hoặc ba bát mang về chùa phân chia cho các tỳ-kheo ni khác cùng ăn. Như tỳ-kheo ni không có bệnh mà thọ nhận nhiều hơn hai hoặc ba bát, khi về chùa không phân chia cho các tỳ-kheo ni khác cùng ăn, phạm tội ba-dật-đề.

24. Như có tỳ-kheo ni nào ăn phi thời, phạm tội ba-dật-đề.

25. Như có tỳ-kheo ni nào ăn thức ăn chứa trữ từ hôm trước, phạm vào tội ba-dật-đề.

26. Như có tỳ-kheo ni nào, không phải thức ăn hoặc thuốc cúng dường cho mình mà để vào trong miệng, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ ra nước và nhành dương.

27. Như có tỳ-kheo nào trước đã thọ thỉnh cúng dường, sau đó trước hoặc sau giờ thọ thực lại đến nhà khác mà không báo cho tỳ-kheo khác biết, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ các trường hợp như có bệnh, hoặc khi nhận cúng y, khi may y.

28. Như có tỳ-kheo ni nào khất thực trong nhà có đồ quý giá, cố ngồi nán lại, phạm vào tội ba-dật-đề.

29. Như có tỳ-kheo ni nào khất thực trong nhà có đồ quý giá, đến chỗ khuất trong nhà mà ngồi, phạm vào tội ba-dật-đề.

30. Như có tỳ-kheo ni nào ngồi riêng với nam giới ở chỗ trống trải, phạm vào tội ba-dật-đề.

31. Như có tỳ-kheo ni nào bảo tỳ-kheo ni khác cùng đi với mình đến chỗ thôn xóm kia, nói rằng có thể nhận được thức ăn. Đến nơi không cho ăn, lại xô đuổi vị kia rằng: “Bà nên đi đi. Tôi ngồi với bà, nói chuyện với bà không được vui, tôi ngồi một mình sẽ được vui vẻ.” Nói thế không ngoài mục đíchtìm cách xô đuổi vị kia đi nơi khác. Tỳ-kheo ni như vậy phạm vào tội ba-dật-đề.

32. Như có tỳ-kheo ni nào muốn nhận sự cúng dường thuốc men của thí chủ để dùng trong vòng 4 tháng, dù không bệnh cũng được nhận. Nếu nhận quá mức trên, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ các trường hợp có người phát tâm cúng dường thường xuyên, hoặc hết hạn bốn tháng rồi nhận cúng dường lần khác, hoặc thí chủ mang đến chùa phân chia cúng dường cho ni chúng, hoặc thí chủ phát tâm cúng dường suốt đời.

33. Như có tỳ-kheo ni nào đến xem những chỗ quân trận, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợpnhân duyên thích hợp.

34. Như có tỳ-kheo ni nào có nhân duyên phải đến chỗ quân trận, có thể ở lại hai hoặc ba đêm. Nếu quá, phạm vào tội ba-dật-đề.

35. Như có tỳ-kheo ni nào, có nhân duyên phải đến chỗ quân trận, phải ở lại đó từ hai đến ba đêm, lại đi xem quân lính tập dượt, dàn trận, đánh nhau, phạm vào tội ba-dật-đề.

36. Như có tỳ-kheo ni nào uống rượu, phạm vào tội ba-dật-đề.

37. Như có tỳ-kheo ni nào bơi lội đùa nghịch trong nước, phạm tội ba-dật-đề.

38. Như tỳ-kheo ni dùng ngón tay mà chọc lẫn vào người nhau, phạm vào tội ba-dật-đề.

39. Như có tỳ-kheo ni nào không nghe lời can ngăn của người khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

40. Như có tỳ-kheo ni nào làm cho tỳ-kheo ni khác lo lắng, sợ sệt, phạm vào tội ba-dật-đề.

41. Như có tỳ-kheo ni nào trong nửa tháng tắm quá một lần, phạm tội ba-dật-đề. Trừ các trường hợp như khi trời nóng nực, khi thân thể có bệnh, khi phải làm việc nhiều, khi mưa gió, khi đi đường xa.

42. Như có tỳ-kheo ni nào không có bệnh nhưng vì muốn hơ ấm, ở chỗ đất trống đốt lửa, hoặc sai khiến người khác đốt, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợpnhân duyên thích hợp.

43. Như có tỳ-kheo ni nào mang giấu y bát, tọa cụ, ống đựng kim của tỳ-kheo ni khác, dù chỉ để đùa chơi, phạm vào tội ba-dật-đề.

44. Như có tỳ-kheo ni nào đã đem y thí cho người khác, về sau không nói với người ấy mà tự ý lấy dùng, phạm vào tội ba-dật-đề.

45. Như có tỳ-kheo ni nào được y mới, phải đem nhuộm cho xấu đi rồi mới dùng. Nếu không nhuộm xấu đi mà mặc vào, phạm tội ba-dật-đề.

46. Như có tỳ-kheo ni nào cố ý giết chết các loài động vật, phạm vào tội ba-dật-đề.

47. Như có tỳ-kheo ni nào biết là trong nước có trùng mà dùng để uống, phạm vào tội ba-dật-đề.

48. Như có tỳ-kheo ni nào cố ý tìm cách gây sự phiền muộn, buồn bực cho tỳ-kheo ni khác, khiến chẳng lúc nào được vui vẻ, phạm vào tội ba-dật-đề.

49. Như có tỳ-kheo ni nào biết tỳ-kheo ni khác phạm tội thô mà che giấu, phạm vào tội ba-dật-đề.

50. Như có tỳ-kheo ni nào, biết những chuyện tranh chấp đã theo đúng pháp sám hối trừ diệt rồi, sau lại phát khởi lên, phạm vào tội ba-dật-đề.

51. Như có tỳ-kheo ni nào đã biết là kẻ gian mà cùng đi chung đường, dù chỉ là trong phạm vi một xóm làng, phạm vào tội ba-dật-đề.

52. Như có tỳ-kheo ni nào nói rằng: “Phật có nói là việc dâm dục không ngăn ngại gì cho đạo pháp.” Có tỳ-kheo ni khác can ngăn rằng: “Đại tỷ, chớ nói như thế. Chớ nên hủy báng đức Thế Tôn, như vậy là không tốt. Thế Tôn không hề nói ra lời như vậy. Ngài đã dùng vô số phương tiện để chỉ ra rằng việc dâm dục là ngăn ngại cho đạo pháp.”

can ngăn như thế, tỳ-kheo ni kia vẫn nhất mực không bỏ. Nên khuyên can cho đến ba lần. Nếu đến lần thứ ba mà chịu nghe thì tốt, bằng như vẫn không nghe, phạm vào tội ba-dật-đề.

53. Như có tỳ-kheo ni nào, biết tỳ-kheo ni khác đã nói lời như trên, chưa sám hối theo như pháp, chưa bỏ chỗ tà kiến ấy, mà vẫn cung cấp cho những thứ cần dùng, lại cùng làm phép yết-ma, cùng ngủ nghỉ chung nhau, nói chuyện qua lại, phạm vào tội ba-dật-đề.

54. Như tỳ-kheo ni nào, biết sa-di ni nói ra lời này: “Phật có nói việc dâm dục không ngăn ngại gì cho đạo pháp.” Tỳ-kheo ni ấy liền can ngăn rằng: “Ngươi chớ nên hủy báng đức Thế Tôn, như vậy không tốt. Này sa-di ni, đức Thế Tôn không hề nói ra lời như vậy. Ngài đã dùng vô số phương tiện để chỉ ra rằng việc dâm dục là ngăn ngại cho đạo pháp.”

can ngăn như thế, sa-di ni kia vẫn nhất mực không bỏ. Tỳ-kheo ni ấy nên khuyên can, quở trách cho đến ba lần, buộc phải từ bỏ lời sai trái ấy. Nếu đến lần thứ ba mà chịu nghe thì tốt, bằng như vẫn không nghe, tỳ-kheo ni ấy nên nói như thế này: “Ngươi từ nay về sau không được gọi Phật là đức Thế Tôn của ngươi nữa, không được đi theo các tỳ-kheo ni, cũng không được cùng chư tỳ-kheo ni ngủ chung hai đến ba đêm như các sa-di ni khác. Ngươi phải đi khỏi đây, không được ở lại nữa.”

Như có tỳ-kheo ni nào biết sa-di ni đã bị đuổi đi như vậy mà còn mang về nuôi dưỡng, cùng sa-di ni ấy ngủ nghỉ chung nhau, nói chuyện qua lại, phạm vào tội ba-dật-đề. 

55. Như tỳ-kheo ni nào làm điều sai trái, có tỳ-kheo ni khác theo đúng pháp can ngăn, liền đáp rằng: “Nay tôi không học giới này. Phải đợi chất vấn các vị tỳ-kheo ni khác có trí tuệ, giữ giới.” Tỳ-kheo ni ấy phạm vào tội ba-dật-đề. Như nếu thật sự vì muốn hiểu, muốn học, thì có thể chất vấn.

56. Như có tỳ-kheo ni nào, vào lúc thuyết giới nói rằng: “Đại tỷ, cần chi phải nói những giới vụn vặt ấy, chỉ làm cho người ta phải buồn phiền, hổ thẹn mà thôi.” Như vậy là nghi ngờ, khinh chê giới luật, phạm vào tội ba-dật-đề.

57. Như có tỳ-kheo ni nào, vào lúc thuyết giới nói rằng: “Tôi đến hôm nay mới biết trong giới pháp có điều này, từ trong Giới kinh rút ra, nửa tháng tụng đọc một lần.” Nhưng các tỳ-kheo ni khác thật biết rằng tỳ-kheo ni ấy ít nhất cũng đã hai hoặc ba lần ngồi nghe thuyết giới, huống là rất nhiều lần.

Tỳ-kheo ni ấy không phải là không biết giới. Như đã phạm tội gì thì cứ theo đúng pháp mà trị. Ngoài ra, phải ghép thêm tội không biết nữa, bảo cho biết rằng: “Đại tỷ, cô thật không được sự ích lợi, không có chỗ khéo được. Khi thuyết giới cô đã không chú tâm vào, không một lòng lắng tai nghe pháp.” Vì không biết như thế, phạm vào tội ba-dật-đề.

58. Như có tỳ-kheo ni nào cùng ni chúng dự phép yết-ma rồi, sau lại nói rằng: “Các tỳ-kheo ni vì chỗ thân thiết mà lấy vật của ni chúng đem cho người kia.” Như vậy phạm vào tội ba-dật-đề.

59. Như có tỳ-kheo ni nào, khi ni chúng bàn việc chưa xong, tự ý bỏ đi không nói là mình thuận theo ý chung, phạm vào tội ba-dật-đề.

60. Như có tỳ-kheo ni nào, đã nói là mình thuận theo ý chung, nhưng về sau lại có ý hối tiếc, phạm vào tội ba-dật-đề.

61. Như có tỳ-kheo ni nào, biết các tỳ-kheo ni khác đang bất hòa nhau, nghe chuyện bên này đến nói với bên kia, phạm vào tội ba-dật-đề.

62. Như có tỳ-kheo ni nào, do nóng giận không vui mà đánh tỳ-kheo ni khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

63. Như có tỳ-kheo ni nào, do nóng giận không vui mà dùng tay vả, tát tỳ-kheo ni khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

64. Như có tỳ-kheo ni nào, do nóng giận mà vô cớ vu cáo tỳ-kheo ni khác là phạm tội tăng-già bà-thi-sa, phạm vào tội ba-dật-đề.

65. Như có tỳ-kheo ni nào đi vào chốn cung môn lúc vua chưa ra triều, chưa kịp cất giấu của báu, bước qua ngạch cửa phạm vào tội ba-dật-đề.

66. Như có tỳ-kheo ni nào tự tay cầm nắm các món đồ quý hoặc trang sức giá trị, hoặc chỉ bảo, sai khiến người khác cầm giữ, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợp trong khuôn viên chùa hoặc nơi mình đang tạm nghỉ.

Nếu trong khuôn viên chùa hoặc nơi đang tạm nghỉ, tỳ-kheo ni có tự tay cầm nắm các món đồ quý hoặc chỉ bảo, sai khiến người khác cầm giữ, nên suy nghĩ như thế này: “Nếu chủ nhân biết mà đến sẽ giao cho.” Thật chỉ vậy chứ không có ý gì khác.

67. Như có tỳ-kheo ni nào đi vào thôn xóm trái giờ mà không báo cho các tỳ-kheo ni khác biết, phạm vào tội ba-dật-đề.

68. Như có tỳ-kheo ni nào làm giường nằm cao quá tám lóng tay của Phật, không tính từ chỗ vào mộng trở lên, làm xong phạm vào tội ba-dật-đề.

69. Như có tỳ-kheo ni nào dùng loại bông mềm nhuyễn để dồn trải lên giường, nệm nằm, nệm ngồi, phạm vào tội ba-dật-đề.

70. Như có tỳ-kheo ni nào ăn các loại gia vị hành, tỏi, phạm vào tội ba-dật-đề.

71. Như có tỳ-kheo ni nào cạo bỏ ba chỗ lông trên thân thể, phạm vào tội ba-dật-đề.

72. Như có tỳ-kheo ni nào, dùng nước rửa bên trong âm hộ, có thể dùng hai ngón tay để đưa vào chừng một lóng tay mà làm sạch. Như sâu hơn một lóng tay, phạm vào tội ba-dật-đề.

73. Như có tỳ-kheo ni nào, dùng chất dẻo tạo thành hình dạng giống như nam căn để đưa vào trong âm hộ, phạm vào tội ba-dật-đề.

74. Như có hai tỳ-kheo ni cùng vỗ về, mơn trớn nữ căn cho nhau, phạm vào tội ba-dật-đề.

75. Như có tỳ-kheo ni nào, đến giờ ăn mang nước uống cho thầy tỳ-kheo không có bệnh, lại dùng quạt đứng trước mặt mà quạt, phạm vào tội ba-dật-đề.

76. Như có tỳ-kheo ni nào, đi khất thực nhận các thứ ngũ cốc chưa nấu chín, phạm vào tội ba-dật-đề.

77. Như có tỳ-kheo ni nào, đại tiểu tiện lên trên cỏ xanh, phạm vào tội ba-dật-đề.

78. Như có tỳ-kheo ni nào, lúc ban đêm đại tiểu tiện trong vật chứa, đến sáng mang đổ không đúng chỗ, phạm vào tội ba-dật-đề.

79. Như có tỳ-kheo ni nào, đi xem các trò ca múa, hát nhạc, phạm vào tội ba-dật-đề.

80. Như có tỳ-kheo ni nào, khi vào trong thôn xóm, cùng với nam giới đứng chung nơi chỗ khuất vắng nói chuyện qua lại, phạm vào tội ba-dật-đề.

81. Như có tỳ-kheo ni nào, cùng với nam giới đi vào chỗ khuất vắng, phạm vào tội ba-dật-đề.

82. Như có tỳ-kheo ni nào, khi vào trong thôn xóm đến chỗ ngõ hẻm, kiếm cớ bảo người cùng đi tránh ra nơi khác, rồi một mình cùng với nam giới ở chỗ khuất vắng đứng nói chuyện thì thầm qua lại, phạm vào tội ba-dật-đề.

83. Như có tỳ-kheo ni nào vào ngồi trong nhà cư sĩ, không nói với chủ nhà mà lặng lẽ bỏ đi, phạm vào tội ba-dật-đề.

84. Như có tỳ-kheo ni nào vào nhà cư sĩ, không nói với chủ nhà mà tự đến ngồi trên giường ghế, phạm vào tội ba-dật-đề.

85. Như có tỳ-kheo ni nào vào nhà cư sĩ, không nói với chủ nhà mà tự dọn chỗ ngủ nghỉ, phạm vào tội ba-dật-đề.

86. Như có tỳ-kheo ni cùng với một người nam đi vào trong nhà tối tăm không đèn, phạm vào tội ba-dật-đề.

87. Như có tỳ-kheo ni nào, nghe không rõ, không suy nghĩ kỹ mà đi nói lại với người khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

88. Như có tỳ-kheo ni nào, chỉ vì một chuyện nhỏ mà dùng lời thề thốt với người khác rằng: “Như ta có làm chuyện ấy, sẽ đọa vào ba đường ác, chẳng gặp được Phật pháp. Như người có làm chuyện ấy, cũng sẽ đọa vào ba đường ác, chẳng gặp được Phật pháp.” Tỳ-kheo ni như vậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

89. Như có tỳ-kheo ni nào cùng người khác tranh cãi chuyện không tốt, không khéo nhớ giữ các pháp tránh sự, đấm ngực kêu la to tiếng. Tỳ-kheo ni như vậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

90. Như có tỳ-kheo ni nào cùng với người khác nằm chung trên một giường, trừ khi do có bệnh, phạm vào tội ba-dật-đề.

91. Như có tỳ-kheo ni nào cùng với người khác cùng nằm chung một tấm nệm, đắp chung một tấm mền, trừ trường hợp đặc biệt, phạm vào tội ba-dật-đề.

92. Như có tỳ-kheo ni nào, biết người ở trước, mình liền từ sau đến; biết người ở sau đến, liền đứng ngăn ở trước, cố ý muốn làm cho người phải phiền lòng, bực dọc, đứng trước mặttụng kinh, hỏi nghĩa, dạy bảo, phạm vào tội ba-dật-đề.

93. Như có tỳ-kheo ni nào cùng sống chung với tỳ-kheo ni bị bệnh mà không chăm sóc, phạm vào tội ba-dật-đề.

94. Như có tỳ-kheo ni nào, vào đầu mùa an cư đồng ý cho tỳ-kheo ni khác đặt giường ngủ trong phòng, sau đó vì có chuyện giận tức liền xô đuổi ra khỏi phòng, phạm vào tội ba-dật-đề.

95. Như có tỳ-kheo ni nào trong cả ba mùa xuân, hạ và đông đi khắp nơi trong dân gian, phạm vào tội ba-dật-đề, trừ trường hợpnhân duyên gì khác.

96. Như có tỳ-kheo ni nào, thọ thỉnh sự cúng dường trong ba tháng an cư của cư sĩ, khi hết mùa an cư mà chẳng chịu rời đi, phạm vào tội ba-dật-đề.

97. Như có tỳ-kheo ni nào, đi du hành trong chốn nhân gian, nơi vùng biên giới đáng ngờ là có nhiều nguy hiểm, phạm vào tội ba-dật-đề.

98. Như có tỳ-kheo ni nào, ở những vùng nghi ngờ có sự nguy hiểm đáng sợ trong xứ mà du hành trong nhân gian, phạm vào tội ba-dật-đề.

99. Như có tỳ-kheo ni nào, thân cận với cư sĩ hoặc con cái của cư sĩ, cùng ở chung một chỗ làm những việc nghịch. Các tỳ-kheo ni khác can ngăn rằng: “Đại tỷ không nên thân cận với cư sĩ hoặc con cái của cư sĩ, cùng ở chung một chỗ làm những việc nghịch. Đại tỷ nên sống riêng biệt, có như vậy mới được thêm chỗ lợi lạc, an ổn trong Phật pháp.

Các tỳ-kheo ni can ngăn như vậy, nhưng tỳ-kheo ni kia vẫn kiên trì không từ bỏ. Nên can ngăn cho đến ba lần. Như chịu bỏ thì tốt, nếu không bỏ, phạm vào tội ba-dật-đề.

100. Như có tỳ-kheo ni nào đến xem những chốn đền đài, cung điện có chạm trổ, trang sức, những nơi vườn tược, ao hồ của vua chúa... phạm vào tội ba-dật-đề.

101. Như có tỳ-kheo ni nào, lõa hình tắm dưới nước sông, nước suối, nước kinh rạch, nước ao hồ, nước đang chảy... không có gì che đậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

102. Như có tỳ-kheo ni nào may áo để che khi tắm, nên may vừa đủ rộng. Bề dài sáu gang tay Phật, bề ngang hai gang rưỡi. Nếu như rộng hơn, phạm vào tội ba-dật-đề.

103. Như có tỳ-kheo ni nào may y tăng-già-lê kéo dài quá năm ngày, phạm vào tội ba-dật-đề, trừ trường hợp chờ xin cho đủ vải, khi xả y công đức, hoặc khi có những trở ngại khó khăn.

104. Như có tỳ-kheo ni nào, quá năm ngày không nhìn đến y tăng-già-lê, phạm vào tội ba-dật-đề.

105. Như có tỳ-kheo ni nào ngăn cản thí chủ cúng dường y cho chúng tăng, phạm vào tội ba-dật-đề.

106. Như có tỳ-kheo ni nào, không hỏi trước mà lấy y của một vị khác dùng, phạm vào tội ba-dật-đề.

107. Như có tỳ-kheo ni nào lấy y của sa-môn mà thí cho người cư sĩ, người ngoại đạo, phạm vào tội ba-dật-đề.

108. Như có tỳ-kheo ni nào nghĩ rằng, chúng tăng theo đúng pháp phân chia y, liền muốn trì hoãn lại, vì sợ đệ tử mình không nhận được y, phạm vào tội ba-dật-đề.

109. Như có tỳ-kheo ni nào có ý nghĩ muốn làm cho chúng tăng không xả được y ca-hy-na, để về sau sẽ xả, vì muốn kéo dài năm sự buông thả. Tỳ-kheo ni như vậy phạm vào tội ba-dật-đề.

110. Như có tỳ-kheo ni nào có ý nghĩ muốn ngăn chúng tỳ-kheo ni không cho xả y ca-hy-na, vì muốn kéo dài năm sự buông thả. Tỳ-kheo ni như vậy phạm vào tội ba-dật-đề.

111. Như tỳ-kheo ni nào, có tỳ-kheo ni khác đến nói rằng: “Xin vì chúng tôi trừ bỏ đi sự tranh cãi này.” Được yêu cầu như vậy nhưng không cố gắng giúp trừ diệt sự tranh cãi, phạm vào tội ba-dật-đề.

112. Như có tỳ-kheo ni nào tự tay đưa thức ăn thí cho người cư sĩ hoặc ngoại đạo, phạm vào tội ba-dật-đề.

113. Như có tỳ-kheo ni nào làm người đưa tin hoặc thay mặt cho cư sĩ, phạm vào tội ba-dật-đề.

114. Như có tỳ-kheo ni nào tự tay kéo sợi, quay tơ, phạm vào tội ba-dật-đề.

115. Như có tỳ-kheo ni nào vào nhà cư sĩ, lên ngồi hoặc nằm trên giường ghế của họ, phạm vào tội ba-dật-đề.

116. Như có tỳ-kheo ni nào vào nhà cư sĩ, bảo chủ nhân dọn chỗ cho ngủ qua đêm, đến sáng chẳng từ biệt chủ mà bỏ đi, phạm vào tội ba-dật-đề.

117. Như có tỳ-kheo ni nào đọc tụng, làm theo những chú thuật của thế tục, phạm vào tội ba-dật-đề.

118. Như có tỳ-kheo ni nào dạy người khác đọc tụng, làm theo những chú thuật của thế tục, phạm vào tội ba-dật-đề.

119. Như có tỳ-kheo ni nào biết người nữ đang mang thai mà nhận cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

120. Như có tỳ-kheo ni nào biết người nữ đang cho con bú mà nhận cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

121. Như có tỳ-kheo ni nào biết người nữ chưa đủ hai mươi tuổi mà nhận cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

122. Như có tỳ-kheo ni nào nhận người nữ mười tám tuổi chưa chồng xuất gia làm sa-di ni, không dạy cho học giới hai năm, đến tròn hai mươi tuổi liền cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

123. Như có tỳ-kheo ni nào nhận người nữ mười tám tuổi chưa chồng xuất gia làm sa-di ni, dạy cho học giới hai năm, nhưng không cho thọ sáu pháp, đợi tròn hai mươi tuổi liền cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

124. Như có tỳ-kheo ni nào nhận người nữ mười tám tuổi chưa chồng xuất gia làm sa-di ni, dạy cho học giới hai năm, đã cho thọ sáu pháp, đến tròn hai mươi tuổi, chúng tăng không thuận mà vẫn cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

125. Như có tỳ-kheo ni nào nhận người nữ mười tuổi đã từng có chồng, phải dạy cho học giới hai năm, đủ mười hai tuổi có thể cho thọ cụ túc giới. Như chưa đủ mười hai tuổi cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

126. Như có tỳ-kheo ni nào nhận người nữ mười tuổi đã từng có chồng, đã dạy cho học giới hai năm, đủ mười hai tuổi, nhưng không bạch với chúng tăng mà cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

127. Như có tỳ-kheo ni nào biết người dâm nữ mà nhận cho xuất gia thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

128. Như có tỳ-kheo ni nào độ cho nhiều đệ tử xuất gia thọ cụ túc giới, nhưng không dạy cho học giới hai năm, cũng không dùng hai pháp nhiếp thủ để dạy dỗ, phạm vào tội ba-dật-đề.

129. Như có tỳ-kheo ni nào xuất gia thọ giới cụ túc mà không theo vị hòa thượng ni ít nhất là hai năm, phạm vào tội ba-dật-đề.

130. Như có tỳ-kheo ni nào, chúng tăng không thuận cho mà vẫn truyền giới cụ túc cho người khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

131. Như có tỳ-kheo ni nào, xuất gia chưa đủ mười hai tuổi hạ mà trao giới cụ túc cho người khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

132. Như có tỳ-kheo ni nào, xuất gia đủ mười hai tuổi hạ, nhưng chúng tăng không thuận cho mà vẫn truyền giới cụ túc cho người khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

133. Như có tỳ-kheo ni nào, chúng tăng không thuận cho truyền giới cụ túc, liền nói rằng: “Chúng tăng có yêu, có giận, có sợ, có ngu si, như muốn cho ai thọ giới thì tùy tiện mà cho.” Tỳ-kheo ni như vậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

134. Như có tỳ-kheo ni nào, truyền giới cụ túc cho người mà cha, mẹ hoặc chồng không cho phép xuất gia, phạm vào tội ba-dật-đề.

135. Như có tỳ-kheo ni nào, biết người nữ đang có chuyện yêu đương, buồn khổ, hờn giận với nam giới, lại nhận cho xuất gia thọ giới cụ túc, phạm vào tội ba-dật-đề.

136. Như có tỳ-kheo ni nào nói với thức-xoa-ma-na ni rằng: “Cô nên bỏ điều này, học điều này... ta sẽ truyền giới cụ túc cho cô.” Như không tạo phương tiện để truyền giới cụ túc cho người ấy, phạm vào tội ba-dật-đề.

137. Như có tỳ-kheo ni nào nói với thức-xoa-ma-na ni rằng: “Cô mang y trao cho ta, ta sẽ truyền giới cụ túc cho cô.” Như không tạo phương tiện để truyền giới cụ túc cho người ấy, phạm vào tội ba-dật-đề.

138. Như có tỳ-kheo ni, chưa quá một năm mà đã truyền giới cụ túc cho hai người, phạm vào tội ba-dật-đề.

139. Như có tỳ-kheo ni, nhận truyền giới cho người khác rồi, để qua ngày hôm sau mới đưa đến chỗ tỳ-kheo tăng để thọ giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

140. Như có tỳ-kheo ni, không có bệnh mà không đến nghe tăng giáo thọ, phạm vào tội ba-dật-đề.

141. Tỳ-kheo ni nửa tháng một lần phải đến chỗ chúng tỳ-kheo tăng thỉnh cầu giáo thọ. Như không làm vậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

142. Tỳ-kheo ni, sau ba tháng an cư phải đến chỗ chúng tỳ-kheo tăng để trình bày ba việc: những điều đã thấy, những điều đã nghe và những điều còn nghi. Như không làm vậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

143. Như có tỳ-kheo ni nào an cư ở nơi không có chúng tỳ-kheo tăng, phạm vào tội ba-dật-đề.

144. Như có tỳ-kheo ni nào, biết là chỗ tự viện của chư tỳ-kheo tăng, không tác bạch mà tự tiện vào, phạm vào tội ba-dật-đề.

145. Như có tỳ-kheo ni nào nhục mạ tỳ-kheo, phạm vào tội ba-dật-đề.

146. Như có tỳ-kheo ni nào, tánh ưa chuyện tranh chấp không tốt, không khéo nhớ giữ các pháp tránh sự, rồi sau giận dữ không vui, nhục mạ chúng tỳ-kheo ni, phạm vào tội ba-dật-đề.

147. Như có tỳ-kheo ni, thân thể có những ghẻ độc hoặc thương tổn cần mổ xẻ, nhưng không thưa với chúng tỳ-kheo ni hoặc nói cho người khác biết trước khi để y sĩ là nam giới mổ xẻ trị thương cho mình, phạm vào tội ba-dật-đề.

148. Như có tỳ-kheo ni, đã nhận thỉnh thọ thực rồi, hoặc đã ăn no rồi, sau lại còn ăn thêm các món khác nữa, phạm vào tội ba-dật-đề.

149. Như có tỳ-kheo ni nào sanh lòng ganh tỵ không muốn thí chủ cúng dường tỳ-kheo ni khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

150. Như có tỳ-kheo ni, dùng các thứ hương phấn bôi xức lên thân thể, phạm vào tội ba-dật-đề.

151. Như có tỳ-kheo ni, dùng xác dầu mè bôi xức lên thân thể, phạm vào tội ba-dật-đề.

152. Như có tỳ-kheo ni, sai khiến tỳ-kheo ni khác xoa bóp thân thể mình, phạm vào tội ba-dật-đề.

153. Như có tỳ-kheo ni, sai khiến thức-xoa-ma-na ni xoa bóp thân thể mình, phạm vào tội ba-dật-đề.

154. Như có tỳ-kheo ni, sai khiến sa-di ni xoa bóp thân thể mình, phạm vào tội ba-dật-đề.

155. Như có tỳ-kheo ni, sai khiến phụ nữ thế tục xoa bóp thân thể mình, phạm vào tội ba-dật-đề.

156. Như có tỳ-kheo ni mặc váy lót, phạm vào tội ba-dật-đề.

157. Như có tỳ-kheo ni cất chứa những thứ đồ trang sức của phụ nữ thế tục, phạm vào tội ba-dật-đề, trừ khi do có nhân duyên.

158. Như có tỳ-kheo ni mang dép da và cầm dù che mà đi, phạm vào tội ba-dật-đề, trừ khi do có nhân duyên.

159. Như có tỳ-kheo ni, không có bệnh mà đi xe, phạm vào tội ba-dật-đề, trừ khi do có nhân duyên.

160. Như có tỳ-kheo ni đi vào chỗ thôn xóm mà không mặc y tăng-kỳ-chi, phạm vào tội ba-dật-đề.

161. Như có tỳ-kheo ni, trước đó không có sự mời thỉnh, khi trời chiều gần tối đi đến nhà người thế tục, phạm vào tội ba-dật-đề.

162. Như có tỳ-kheo ni, khi trời chiều gần tối mở cổng chùa đi ra mà không báo cho các tỳ-kheo ni khác biết, phạm vào tội ba-dật-đề.

163. Như có tỳ-kheo ni, khi mặt trời đã lặn, mở cổng chùa đi ra mà không báo cho các tỳ-kheo ni khác biết, phạm vào tội ba-dật-đề.

164. Như có tỳ-kheo ni trước sau đều không dự ba tháng an cư, phạm vào tội ba-dật-đề.

165. Như có tỳ-kheo ni biết người nữ mang bệnh, các đường đại tiểu tiện thường rỉ chảy, lại sanh nhiều đờm dãi ô uế, vẫn nhận cho thọ giới cụ túc, phạm vào tội ba-dật-đề.

166. Như có tỳ-kheo ni biết người thuộc hạng chẳng phải nam chẳng phải nữ, vẫn nhận cho thọ giới cụ túc, phạm vào tội ba-dật-đề.

167. Như có tỳ-kheo ni biết người dị tật hai đường đại tiểu tiện nhập làm một, vẫn nhận cho thọ giới cụ túc, phạm vào tội ba-dật-đề.

168. Như có tỳ-kheo ni biết người nữ mang bệnh nan y hoặc đang mắc nợ chưa trả hết, vẫn nhận cho thọ giới cụ túc, phạm vào tội ba-dật-đề.

169. Như có tỳ-kheo ni học lấy các môn kỹ thuật của thế tục để lấy đó làm kế sinh nhai, phạm vào tội ba-dật-đề.

170. Như có tỳ-kheo ni dạy các môn kỹ thuật của thế tục cho hàng cư sĩ, phạm vào tội ba-dật-đề.

171. Như có tỳ-kheo ni bị chúng tăng trục xuất mà không chịu đi, phạm vào tội ba-dật-đề.

172. Như có tỳ-kheo ni thưa hỏi nghĩa lý với tỳ-kheo tăng mà không xin phép trước, phạm vào tội ba-dật-đề.

173. Như có tỳ-kheo ni biết người ở trước mình, liền từ sau đến, biết người ở sau đến, liền đứng ngăn ở trước, cố ý muốn làm cho người phải phiền lòng, bực dọc, ở trước mặtkinh hành, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm. Tỳ-kheo ni như vậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

174. Như có tỳ-kheo ni biết là có tỳ-kheo tăng trong chốn tự viện mà xây tháp ở đó, phạm vào tội ba-dật-đề.

175. Như có tỳ-kheo ni gặp vị tỳ-kheo tăng mới thọ giới, phải lập tức đứng dậy nghinh đón, cung kính lễ bái, thăm hỏi, mời ngồi. Nếu không làm vậy, phạm vào tội ba-dật-đề, trừ khi có nhân duyên.

176. Như có tỳ-kheo ni vì muốn làm đẹp mà uốn éo thân hình trong khi đi, phạm vào tội ba-dật-đề.

177. Như có tỳ-kheo ni dùng các món trang sức, hương phấn của phụ nữ trên thân mình, phạm vào tội ba-dật-đề.

178. Như có tỳ-kheo ni sai khiến phụ nữ ngoại đạo dùng các món hương thơm thoa lên thân cho mình, phạm vào tội ba-dật-đề.

_ Kính bạch chư đại tỷ. Tôi đã thuyết xong một trăm bảy mươi tám pháp ba-dật-đề, xin hỏi chư đại tỷ, trong ni chúng đây có được thanh tịnh hay chăng?

Người thuyết giới lập lại câu hỏi này ba lần. Nếu có ai nhớ ra mình đã phạm vào các giới này thì phải tự nhận. Nếu không thì tất cả đều yên lặng.

_ Kính bạch chư đại tỷ, vì các vị đều lặng yên, nên xem như trong ni chúng đây hết thảy đều thanh tịnh. Việc này xin được hiểu như vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49777)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34656)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33468)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43956)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57113)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47592)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39440)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38493)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52980)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36623)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32258)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40510)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43513)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31480)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46734)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36228)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28725)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29267)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31919)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28863)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33400)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29168)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 61021)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39809)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26707)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29700)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37414)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40120)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26866)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42702)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37301)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28316)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28910)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26415)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27188)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26207)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34707)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27832)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30496)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33318)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28588)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30098)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25500)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21864)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51347)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26750)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28641)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27729)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24374)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27491)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31975)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30216)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27733)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35485)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27477)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30043)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31803)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23048)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24207)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23051)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant