Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lễ thọ giới Tỳ-kheo

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 13634)
Lễ thọ giới Tỳ-kheo

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

TỲ-KHEO VÀ TỲ-KHEO NI

LỄ THỌ GIỚI TỲ-KHEO

Bài này của phái Đàm-vô-đức-bộ, ngài Đàm-đế soạn năm 254 theo Dương lịch.

Trước hết, người xin thọ cụ túc giới đứng trước chư tăng mà thưa thỉnh hòa thượng rằng:

Kính bạch đại đức, xin một lòng thương tưởng đến tôi. Tôi tên là ... ... xin thỉnh đại đức làm hòa thượng. Xin đại đức vì tôi làm hòa thượng, tôi nhờ nương theo đại đức mà có thể thọ giới cụ túc. Xin đại đức lấy lòng từ bi thương xót tôi.

Thưa thỉnh như vậy ba lần. Như vị thầy nhận lời, sẽ nói là: “Tốt lắm, tôi nhận lời.”

Khi ấy, chúng tăng cho người muốn thọ giới lui ra, đến một chỗ chỉ có thể nhìn thấy nhưng không nghe được nơi giới đàn. Vị giới sư sẽ thưa hỏi trước đại chúng rằng:

Bạch chư đại đức, trong các vị đây, xin hỏi ai có thể vì đệ tử này mà nhận làm giáo thọ sư hay chăng?

Vị tỳ-kheo nào trong đại chúng nhận làm giáo thọ sẽ bước ra trả lời: “Tôi có thể nhận làm.”

Khi ấy, vị giới sư liền thưa trước chúng rằng :

Kính bạch chư đại đức tăng! Đệ tử đây tên là ...(tên người xin thọ giới) ... theo hòa thượng ...(tên vị hòa thượng đã nhận thỉnh) ... cầu thọ cụ túc giới. nếu chư tăng thấy đây là lúc thích hợpưng thuận, thì đại đức ... (tên vị đã nhận làm giáo thọ) sẽ làm giáo thọ.

Nếu đại chúng yên lặng tức là đã ưng thuận. Vị giáo thọ liền đến chỗ người xin thọ giới mà hỏi rằng:

Đây là ba tấm y an-đà-hội, uất-đa-la-tăng, tăng-già-lê, đây là bình bát. Những thứ này có phải là của ông hay chăng?

Người thọ giới đáp: “Thưa, đúng là của tôi.”

Vị giáo thọ dạy tiếp:

Ông nên nghe cho rõ đây. Giờ là lúc phải chí thành, lúc phải nói lên sự thật. Nay ta hỏi con, điều nào đúng thật, phải thưa là đúng thật, như có gì không thật, phải thưa là không thật.

Sau đó, vị giáo thọ lần lượt hỏi người xin thọ giới về các già nạn.

Ông có phạm vào biên tội không?

Ông có quan hệ không đúng đắn với tỳ-kheo ni không?

Ông có vì dụng ý xấu mà muốn xuất gia không?

Trước đây ông có theo ngoại đạo, xin thọ giới rồi trở lại theo ngoại đạo, nay đến xin thọ giới nữa hay không?

Ông có phải người đã thiến dương vật không?

Ông có phạm các tội giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp tăng... hay không?

Ông có phải hạng bán nam bán nữ không?

Ông tên là gì?

Hòa thượng của ông tên là gì?

Ông đã đủ hai mươi tuổi hay chưa?

Cha mẹđồng ý cho ông xuất gia hay không?

Ông có phải là người còn đang làm việc công, hoặc đang thiếu nợ hay không?

Ông có mắc các chứng bệnh nan y, bệnh tâm thần hay không?...

Người thọ giới phải lần lượt trả lời thông suốt từng câu hỏi trên. Nếu vướng phải một trong các vấn đề ấy thì không thể cho thọ giới. Thầy giáo thọ lại nói tiếp:

Những điều ta đã hỏi ông đây, chúng tăng rồi cũng sẽ hỏi lại như vậy. Ông lại phải như thật mà đáp không được sai khác.

Sau khi hỏi xong, thầy giáo thọ trở lại chỗ giới đàn, đứng thẳng người thưa với đại chúng rằng:

Kính bạch chư đại đức tăng! Đệ tử tên ... ... theo hòa thượng ... ... cầu thọ cụ túc giới. Nếu như đã phải lúc thích hợp, chư tăng đều ưng thuận, tôi vừa đến hỏi xong về các già nạn, xin cho phép đệ tử ấy vào đây để đại chúng xem xét.

Như đại chúng không có ai lên tiếng, tức là đã ưng thuận, thầy giáo thọ liền lớn tiếng gọi người xin thọ giới: “Hãy vào đây.”

Khi người xin thọ giới đã vào đến, liền dạy đưa y bát cho vị giới sư, rồi làm lễ hết thảy chúng tăng. Sau đó, đến trước vị giới sưcầu thọ giới như thế này:

Kính bạch chư đại đức tăng! Tôi theo hòa thượng ... ... cầu thọ cụ túc giới. Nay xin chúng tăng thuận cho tôi được thọ cụ túc giới, hòa thượng là ... ... Xin chúng tăng từ bi thương xót cho tôi được thọ giới.

Cầu xin như vậy đủ ba lần. Vị giới sư liền đứng ra thưa với đại chúng rằng:

Kính bạch chư đại đức tăng. Đệ tử tên ... ... đây theo hòa thượng ... ... cầu thọ cụ túc giới. Nay đối trước chúng tăng xin được thuận cho thọ cụ túc giới, hòa thượng là ... ... Nếu như đã phải lúc thích hợp, chư tăng đều ưng thuận, tôi xin hỏi đệ tử ... ... về các sự ngăn trở việc xuất gia.

Sau khi thưa trước đại chúng như vậy rồi, liền nói với người xin thọ giới rằng:

Ông nên nghe cho rõ đây. Giờ là lúc phải chí thành, lúc phải nói lên sự thật. Nay ta hỏi ông, điều nào đúng thật, phải nói là đúng thật, như có gì không thật, phải nói là không thật.

Sau đó, vị giới sư lập lại các câu hỏi mà thầy giáo thọ đã hỏi lúc nãy. Người xin thọ giới phải như thật trả lời thông suốt.

Nếu trả lời không có gì trở ngại, vị giới sư liền thưa trước đại chúng rằng:

Kính bạch chư đại đức tăng. Đệ tử tên ... ... đây theo hòa thượng ... ... cầu thọ cụ túc giới, nay xin với chúng tăng cho được thọ cụ túc giới, hòa thượng là ... ... Đệ tử tên ... ... tự nói là trong sạch, không có các sự ngăn trở việc xuất gia, đã đủ hai mươi tuổi, y bát đầy đủ. Nay xin chúng tăng cho đệ tử này thọ cụ túc giới. Trong chư đại đức tăng, vị nào ưng thuận xin lặng yên chấp nhận, vị nào không ưng thuận xin tùy tiện nói ra.

Vị giới sư lập lại như vậy đến ba lần. Nếu trong chúng tăng không có ai phản đối, tức là đã chuẩn thuận cho việc thọ cụ túc giới. Mọi việc cứ y theo như vậy tiến hành.

Vị giới sư nói tiếp với người xin thọ giới:

Ông hãy lắng nghe đây. Đức Như Lai Vô sở trước Chánh đẳng giác đã dạy bốn pháp ba-la-di. Nếu tỳ-kheo nào phạm vào thì không được nhận là tỳ-kheo nữa, không phải hàng đệ tử Phật. Ông hãy nghe cho rõ các pháp ấy.

1. Không được phạm vào sự dâm dục, làm chuyện không trong sạch. Nếu tỳ-kheo không giữ hạnh trong sạch, làm chuyện dâm dục, thậm chí với loài súc sanh, không còn là sa-môn, không phải là đệ tử Phật nữa. Như gạch đá đã bể nát ra, không thể nào hợp lại được nữa. Ông thọ giới này trọn đời không được phạm vào, có thể giữ được hay không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

2. Không được trộm cắp, cho dù là những món cỏ lá nhỏ nhặt. Nếu tỳ-kheo trộm lấy của người khác, hoặc chỉ bảo, sai khiến người khác trộm lấy, tự mình chặt phá, hoặc sai bảo người khác chặt phá, hoặc chôn giấu, hoặc làm thay đổi màu sắc để cho đồ vật ấy trở thành của mình, không còn là sa-môn, không phải đệ tử Phật nữa. Như người đã bị cắt đứt đầu, không thể sống lại được. Ông thọ giới này trọn đời không được phạm vào, có thể giữ được hay không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

3. Không được cố ý đoạn dứt sanh mạng của bất cứ chúng sanh nào, cho đến loài nhỏ nhoi như sâu kiến cũng vậy. Nếu tỳ-kheo tự tay đoạn dứt sanh mạng của người, hoặc cầm dao bén đưa cho người khác, bảo người khác là nên chết, khen ngợi, khuyến khích sự chết, dùng thuốc độc, hoặc phá thai, hoặc thư ếm, nguyền rủa người ta cho chết, dù tự mình làm hoặc chỉ bảo sai khiến người khác làm đều không còn được xem là sa-môn, là đệ tử Phật nữa. Như cây đa-la, trong ruột cây đã bị cắt đứt thì không thể sống được nữa. Ông thọ giới này trọn đời không được phạm vào, có thể giữ được hay không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

4. Không được nói lời gian dối, sai sự thật, cho đến dù là lời nói chơi để đùa vui cũng không được. Nếu tỳ-kheo không chân thật, tự mình không có mà xưng là đã chứng đắc pháp cao thượng, được định, được Bốn không định, đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm hoặc A-la-hán, lại nói có trời, rồng... đến cúng dường cho mình, như vậy không phải là sa-môn, không phải là đệ tử Phật nữa. Như cây kim may bị sứt mất đít kim, chẳng thể dùng lại được nữa. Ông thọ giới này trọn đời không được phạm vào, có thể giữ được hay không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

Sau đó, sư Yết-ma dạy cho bốn điều để tỳ-kheo suốt đời nương theo, gọi là Tứ y pháp:

1. Người xuất gia trọn đời chỉ mặc y phục may từ những vải vụn đã bỏ đi mà chắp lại. Ông có thể giữ được không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

Tuy nhiên, nếu có ai cúng dường y phục mang nhuộm cho xấu đi thì có thể dùng được.

2. Người xuất gia trọn đời chỉ đi khất thực mà ăn. Ông có thể giữ được không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

Tuy nhiên, nếu có những dịp đặc biệt như chúng tăng cử đi thọ thực, thí chủ mang đến cúng dường, các ngày mùng 8, rằm, mùng một, hoặc thức ăn thường dùng của chúng tăng, hoặc thí chủ thỉnh đến cúng dường, có thể thọ nhận.

3. Người xuất gia trọn đời chỉ ngủ dưới gốc cây. Ông có thể giữ được không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

Tuy nhiên, nếu có ai cúng dường phòng riêng, phòng nhỏ, nhà đá, nhà hai phòng... thì có thể thọ nhận.

4. Người xuất gia trọn đời chỉ dùng những món đắng, hôi mà làm thuốc khi có bệnh. Ông có thể giữ được không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

Tuy nhiên, nếu có ai cúng dường sữa, dầu, sữa tươi, mật... thì có thể thọ nhận.

Cuối cùng, vị Yết-ma tuyên bố trước đại chúng rằng:

“Như vậy, ông đã được thọ cụ túc giới rồi, pháp yết-ma thọ giới như vậy đã thành tựu, được tốt đẹp, có hòa thượng, a-xà-lê đúng theo phép tắc, có chúng tăng chứng minh đầy đủ. Ông nên khéo thọ nhận giáo pháp, nên khuyến hóa việc làm phước, tu sửa tháp Phật, cúng dường chúng tăng. Hòa thượng và thầy giáo thọ dạy ông những gì đều đúng theo giáo pháp, phải một lòng vâng theo, không được trái lời... Hãy siêng năng học hỏi, tham thiền, tụng kinh, chuyên cần cầu phương tiện, ở trong pháp Phật được chứng đắc các quả vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Việc phát tâm xuất gia ban đầu của ông có như thế mới không uổng phí, được quả báo không cùng tận. Như có điều chi chưa hiểu, hãy thưa hỏi hòa thượng và thầy giáo thọ.”

(Nghi thức thọ Đại giới của tỳ-kheo đến đây là hoàn tất. Nên cho người thọ giới lui ra.)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29871)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27128)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21748)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22219)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23597)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20394)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20039)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21929)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24719)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18957)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24699)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30948)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23956)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27748)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26494)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21281)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23199)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38087)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18796)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18420)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19928)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19013)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23127)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23862)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22774)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22889)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29554)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20623)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18684)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15827)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18821)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19634)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20138)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19927)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18102)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22903)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34147)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16405)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16903)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39181)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26022)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20077)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18811)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24032)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29087)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22895)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30917)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20995)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26836)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20653)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26230)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23309)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19810)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24648)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29990)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20201)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20392)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15130)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15819)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23846)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant