Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

3. Cư sĩ tại gia

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 11528)
3. Cư sĩ tại gia

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

CƯ SĨ TẠI GIA

Cư sĩ tại gia, hay chỉ thường gọi là cư sĩ, tức là những thiện nam tín nữ tin theo Phật, đã thọ Tam quyNgũ giới. Vào thời đức Phật, ngài vẫn gọi chung hết thảy đệ tử của mình là Bốn chúng. Trong bốn chúng đó, có hai chúng xuất gia là tỳ-kheo và tỳ-kheo ni, và hai chúng tại gia là ưu-bà-tắc và ưu-bà-di. Ưu-bà-tắc tức là hàng cư sĩ nam giới, có khi cũng gọi là cận sự nam, và ưu-bà-di là cư sĩ nữ giới, có khi cũng gọi là cận sự nữ.

Cư sĩ tại gia là những người mộ đạo, nhưng không thọ đại giới nên không kể vào giáo hội Tăng-già. Bởi thế, họ không được đứng ngang hàng với tăng sĩ trong những kỳ Đại hội, khi tuyên đọc Giới bổn, hoặc khi tụng đọc kinh điển. Họ chỉ được dự những ngày lễ cúng, những buổi thuyết pháp, dâng cúng lễ vật, cầu nguyện, lễ Phật, và được nghe chư tăng giảng giải đạo lý.

Cư sĩ tại gia ít nhất cũng đã thọ lễ quy y, nghĩa là được một vị tăng sĩ chứng minh cho trong một buổi lễ chính thức phát nguyện quy y Tam bảo. Đó là quy y Phật, quy y Phápquy y Tăng. Phát nguyện quy y rồi, các vị này nhận một vị tăng sĩ làm bổn sư của mình, và được vị này truyền cho Năm giới, tức là năm điều răn dạy giúp cho cuộc sống trở nên chân chính, đúng đắn. Cư sĩ giữ được trọn vẹn năm giới thì tự nhiên mọi điều cao quý khác cũng dần dần đạt được. Năm giới ấy là:

1. Không sát sanh
2. Không trộm cắp
3. Không tà dâm
4. Không nói dối
5. Không uống rượu

Ngoài ra, cư sĩ đã thọ năm giới rồi thì cũng được khuyên nên tránh không buôn bán năm thứ này: khí giới, con người, các loại thịt, rượu và thuốc độc.

Đôi khi Năm giới được hiểu là năm giới cấm. Hiểu như vậy, ban đầu không thấy gì là khác biệt. Nhưng với người học Phật lâu năm thì có chỗ trở ngại không hay, vì không hoàn toàn phù hợp với tinh thần Phật giáo.

Giới tức là ngăn ngừa. Ngăn không cho làm điều này hoặc điều khác, nghĩa là giữ cho sự việc đừng xảy ra. Cấm cũng là không cho làm, cũng là giữ cho sự việc không xảy ra. Nhưng ngăn ngừa không phải là cấm. Bởi ngăn ngừa ở đây tức là chỉ ra cho người ta biết phân biệt đúng sai, hay dở, để họ có thể tự mình tránh xa điều xấu mà không làm. Nên Năm giới cần được hiểu là năm điều răn dạy thì mới đúng. Như hiểu là cấm, tất nhiên kẻ phạm vào phải bị trừng phạt. Nhưng theo cách hiểu của Phật giáo thì kẻ làm ác gặp ác, không phải là sự trừng phạt mà chỉ là theo quy luật nhân quả tất yếu. Không có một đấng tối cao nào có quyền lực phán xét, trừng phạt chúng ta, chỉ có chính hành vi của ta sẽ dẫn đến những kết quả tốt hay xấu cho ta mà thôi. Vì thế, đức Phật chưa bao giờ nói cấm các đệ tử của ngài làm điều này, điều khác... mà chỉ khuyên dạy chúng ta không nên làm điều này hoặc điều khác mà thôi.

Có một sự khác biệt khá lớn về mặt tâm lý giữa hai khái niệm này. Khi người cư sĩ hiểu rằng mình đã thọ nhận năm điều cấm làm, họ sẽ có cảm giác nặng nề, căng thẳng hơn là năm điều không nên làm. Bước đầu thọ giới, điều thực tếtrong đời sống trần tục, không sớm thì muộn một cư sĩ cũng sẽ có lúc nào đó phạm giới, như nói dối, uống rượu... chẳng hạn. Với tâm lý của người phạm vào điều cấm, sẽ dễ nảy sinh sự sợ sệt, tự ti, mặc cảm. Ngược lại, khi nghĩ rằng mình đã không làm đúng với một điều răn dạy, người ấy sẽ phát sinh lòng ăn năn hối lỗi, muốn phục thiện và sẽ cầu được sám hối để không tái phạm. Nói như vậy, không phải là tạo sự dễ dãi, khuyến khích người phạm giới, nhưng thật ra đó chính là hiệu quả thiết thực của Năm giới trong việc hoàn thiện con người.

Cư sĩ thọ giới rồi, quá trình giữ giới cũng tự nhiên trải qua nhiều thứ bậc. Ban đầu, phải luôn ghi nhớ trong tâm trí mình những điều đã được truyền dạy. Khi dự một cuộc vui, phải nhớ mình đã thọ giới không uống rượu. Trong việc giao dịch buôn bán, dù muốn được lợi nhiều, cũng phải nhớ mình đã thọ giới không nói dối... Cứ như vậy, nhất cử nhất động hàng ngày đều phải tự ngăn ngừa mình, không cho phạm vào những giới đã thọ trì.

Tại sao phải như vậy? Đó là vì cái thói quen đã huân tập từ rất lâu ngày trước lúc thọ giới, hầu như hết thảy đều là phạm giới. Chỉ cần trong khi tán chuyện với bạn bè, dù chỉ để cho câu chuyện thêm phần vui tai, hấp dẫn, ta cũng không ngại gì mà không thêm thắt, sửa đổi một đôi điều. Mà nay thọ giới rồi thì việc ấy là không nên làm nữa, huống chi là nói dối để lừa gạt người? Lại như trước đây, gặp người vợ của bạn mình nhan sắc xinh đẹp, cợt nhã một đôi câu cũng là chuyện thường, mà lại rất thích ý nữa. Nay thọ giới rồi, chuyện ấy cũng không nên làm nữa. Vì vậy, mỗi mỗi việc làm khi đã thọ giới rồi đều phải suy xét thận trọng, không thể bừa bãi, phóng túng như xưa.

Vậy nên người nghiêm túc giữ giới thì chỉ trong thời gian ngắn có thể thay đổi rất đáng kể những thói hư tật xấu lâu ngày của mình, có thể tạo ngay được không khí an ổn, hòa dịu trong gia đình cũng như trong quan hệ giao tiếp xã hội.

Người kiên trì thọ giới lâu ngày lại có những thay đổi khác nữa. Vì đã thuần thục nên chẳng còn phải suy nghĩ nhiều đến giới. Nhất cử nhất động khi ấy đều tự nhiên phù hợp với Năm giới mà không cần phải suy nghĩ, ngăn ngừa. Mở miệng chỉ nói lời chân thật, không có sự suy nghĩ rằng “Ta đang giữ giới không nói dối.” Thấy rượu tự tránh, không hề phải suy nghĩ rằng “Ta đang giữ giới không uống rượu.” Mọi việc thảy đều như thế, nên dù không nghĩ đến mà không hề phạm giới. Giữ giới được đến mức này thì thân tâm tự nhiên đoan chánh, người chung quanh tự khắc phải nhận ra, biết ngay đây là bậc đức độ, thanh tịnh.

Người thọ trì Tam quy và giữ trọn Năm giới thì vĩnh viễn không bị đọa vào các đường ác. Người ấy dù sống ở đâu cũng được các vị hộ pháp, thiện thần bảo vệ che chở. Đó gọi là sự cảm ứng, không có gì là huyền hoặc cả. Ngày nay, cư sĩ thọ Năm giới về hình thức thì rất nhiều, nhưng người thực sự thọ trì không có là bao. Những kẻ chỉ giữ giới qua loa tùy tiện, nay hủy mai phạm thì làm sao có thể biết được sức vi diệu của Năm giới?

Mặt khác, các vị tăng sĩ truyền giới cho cư sĩ ngày nay phần đông rất dễ dãi, tùy tiện, nên người thọ giới cũng không ý thức hết được tầm quan trọng của việc thọ giới. Có những người cho con cái nhận lễ Quy y, thọ Năm giới từ lúc một hai tuổi, chúng đã biết gì để thọ trì? Đến khi lớn lên lại cứ nghĩ mình đã quy y, đã là Phật tử rồi, nên không để tâm đến việc thọ giới nữa, làm sao có được sự lợi ích của người trì giới? Phần nhiều các lễ quy y truyền giới cũng được tổ chức có phần nghi lễ, mà không chú trọng nhiều đến sự giáo huấn, giảng giải cho cư sĩ có được cách hiểu đúng đắn. Bước khởi đầu như vậy nên kẻ thọ giới rồi tùy tiện hủy phạm cũng là điều dễ hiểu.

Phần đông cư sĩ không hiểu được trọn vẹn những bổn phận của mình. Tuy họ thọ nhận Năm giới nhưng phần lớn vẫn nghĩ rằng đi chùa cúng Phật là để chuộc tội. Họ đem tiền bạc, đồ vật đến dâng cúng nơi Phật đường, nên nghĩ rằng tội lỗi của mình sẽ được ân xá! Để làm cho cư sĩ hiểu đúng ý nghĩa của việc đi chùa, lễ Phật, và biết tự soi rọi lại mình mà bỏ ác làm lành, quả là trách nhiệm rất nặng nề của các vị tăng sĩ thọ nhận cúng dường vậy.

Từ xưa tới nay và có lẽ mãi mãi về sau nữa, hàng cư sĩ luôn tôn trọng các bậc xuất gia. Người cư sĩ bận lo việc mưu sinh, chuyện cơm áo lúc nào cũng thúc bách, lại còn những quan hệ ràng rịt của gia đình, rõ ràngnghiệp lực còn nặng nề nên chưa thể thảnh thơi chọn con đường xuất gia. Vì vậy, họ rất kính phục đức hiền từ, tâm giải thoát, và sự giáo huấn, chỉ bày của tăng sĩ. Họ vẫn tự biết rằng muốn sống cuộc sống xuất gia không phải dễ, phải đoạn dứt biết bao điều mà kẻ thế tục không sao dứt bỏ. Họ cũng biết thiên chức của tăng sĩ là thanh cao, luôn tâm niệm những điều từ bi hỷ xả. Các ngài đã đủ ý chí quyết tâm rời bỏ đời sống ái dục gia đình, không màng công danh, lợi lộc nơi cõi tục. Họ cũng biết rằng trí huệđức độ của những bậc xuất gia là cao cả, có thể cứu vớt, nâng đỡ họ trong cơn nạn khổ, suy sụp về tinh thần. Vì vậy, họ rất chuộng việc cúng dường cho chư tăngGiáo hội. Với lòng cung kính, họ cúng dường, chu cấp đủ các thứ cần dùng, hoặc riêng cho từng vị tăng, hoặc chung cho cả nhà chùa. Họ chỉ suy nghĩ đơn giản là lập chút công đức để đời sau được hưởng sự sung sướng về vật chấttinh thần.

Được sinh làm người, có hai điều nên làm. Người đủ điều kiện thì nên cố gắng đạt đến trí huệ bằng cách học đạo tham thiền. Người không làm được như vậy, thì nên đem lòng từ bi bố thí tài vật cho chúng sanh tùy theo khả năng mình. Làm như vậy sẽ dẹp bỏ được tâm tham lam, lại tạo được phước đức để đời sau sinh ra sẽ có đủ điều kiện dễ dàng mà theo đường tu tập.

Người cư sĩ đa số chọn con đường bố thícúng dường. Chỉ trừ khi tăng sĩ không giữ được vai trò cao cả của mình, thì cư sĩ mới chê trách mà xa lánh. Chứ như các bậc nghiêm trì giới luật thì hết thảy ai ai cũng đều kính mộ mà tìm đến cúng dường. Dù rằng các vị cao tăng vốn chẳng ham tài vật, của cải, nhưng thiện nam tín nữ tự nhiên cảm đức các ngài mà muốn mang đến dâng cúng rất nhiều. Chính vì vậyxưa kia các ngài mới có thể lập nên những cảnh chùa nguy nga đồ sộ mà ngày nay ta vẫn còn thấy ở nhiều nơi trong cõi Ấn Độ, nhất là tại thành Ba-la-nại và xứ Dà-da.

Lại như trong lịch sử còn ghi chuyện vua A-dục hết lòng mộ đạo, cho đến mang vàng bạc, châu báu trong kho mà dâng cúng cho Giáo hội. Vào thế kỷ thứ sáu, lúc đạo Phật bắt đầu hưng thạnh ở Trung Hoa, vua Lương Võ Đế cũng là một vị cư sĩ rất nhiệt thành, từng cất chùa, xây tháp, cúng dường cho Giáo hội, bố thí cho nhân dân và khuyên bá tánh quy y Tam bảo. Vua Võ Đế và vua A-dục là hai vị hộ pháp chân chính của Giáo hội Tăng-già ở Trung Hoa và Ấn độ vậy. Còn như ở nước ta, xem lại lịch sử các đời Lý, Trần, thì thấy các bậc quốc vương đa số đều mộ đạo, cúng dường và hỗ trợ cho chư tăng rất mạnh mẽ.

Bố thí, cúng dường là những việc cư sĩ nên làm và dễ làm, vì có thể tùy theo khả năng của mình. Dù ít dù nhiều đều là những hạt giống lành, sẽ đi theo mình chẳng thể nào mất được. Tuy nhiên, ngoài việc bố thí, cúng dường, người cư sĩ cũng cần phải biết chọn cho mình một pháp môntu tập nữa.

Việc tham thiền nhập định tuy không phải là không làm được, nhưng quả là rất khó khăn đối với kẻ đang sống cuộc sống gia đình. Vì vậy, ngày xưa đức Phật cũng đã lường trước được những khó khăn của chúng sanh trong thời mạt pháp, tức là khi mà đạo đức nhiễu nhương, chánh tà lẫn lộn. Ngài có dạy rằng, thiện nam tín nữ ai có lòng thành, chí tâm niệm đức Phật A-di-đà thì sẽ được vãng sanh về cõi Cực Lạc của Phật A-di-đà. Những người thấy phù hợp mà chọn tu theo pháp môn niệm Phật đã lập nên một tông phái gọi là Tịnh độ tông.

Con người đời nay mê đắm trong vật chất, suy sụp tinh thần, không còn mấy ai đủ sức trí tuệtham thiền nhập định, vì vậyTịnh độ tông phát triển rất mạnh. Chẳng những cư sĩ, mà tăng sĩ cũng thế, đều dốc lòng niệm Phật, vì thấy rằng pháp môn này quả là rất phù hợp với những điều kiện của thời đại ngày nay.

Khi nói đến việc niệm Phật A-di-đà để cầu được vãng sanh cõi Phật, có nhiều người thấy là rất khó tin. Chính trong kinh A-di-đà, Phật cũng đã nói rõ rằng đây là một pháp môn rất khó tin nhận. Tuy nhiên, nếu ai quyết chí thực hành thì chẳng cần đợi đến khi vãng sanh cõi Phật, mà ngay ở đời này cũng đã tạo được cho mình một niềm tin sâu vững rồi.

Tại sao vậy? Chính trong khi đem hết tâm tríchí thành niệm Phật, người tu tự nhiên sẽ lắng đọng được hết thảy mọi vọng niệm, trừ diệt được tất cả mọi thứ phiền não, ô trược. Nhờ vậy mà tự nhiên nảy sanh được lòng tin sâu vững nơi đức Phật A-di-đà và dứt bỏ được lòng tham lam, ái luyến đối với cõi thế tục này. Lúc đó thì tự nhiên cõi tịnh độ liền hiện ở trong tâm, và người niệm Phật có thể chắc quyết mình sẽ vãng sanh về cõi Phật.

Sở dĩ pháp môn niệm Phật được xem là dễ thực hànhphù hợp hơn với người thời nay, là vì pháp môn ấy kết hợp được cả hai mặt tự lựctha lực.

Tự lực, ấy là sức mạnh của chính mình, lòng quyết tâm tu tập, hành trì không nản chí, chí thành niệm Phật không hề để cho sự biếng nhác, trì trệ ngăn cản, cũng không để cho những tham dục, ái luyến lôi kéo. Tự lực có mạnh thì mới có sự tu tập bền bỉ, mới chống lại được sự cám dỗ của những tham muốn thế tục.

Tha lực, là sức tin vào nguyện lực của Phật A-di-đà. Vì Phật A-di-đà từ khi còn làm Bồ Tát đã có nguyện rằng, khi ngài thành Phật, tất cả những chúng sanh nào chí thành niệm danh hiệu ngài đều sẽ được tiếp dẫn về cõi nước Cực Lạc của ngài.

Nếu đem so pháp môn niệm Phật với việc tu thiền chẳng hạn, thì sẽ thấy khác biệt rất nhiều. Người tu thiền phải hết sức tinh tấn, dựa vào sức mình là chính, vượt qua hết thảy mọi chướng ngạiđạt đến giải thoát. Ấy là pháp môn rất phù hợp với những bậc thượng căn đại trí. Còn kẻ trí thô đức mỏng, quả thật là sẽ rất khó khăn. Trong khi ấy, người tu niệm Phật có thể tùy sức của mình mà dần dần tu tập, lại được sự gia hộ độ trì của đức Phật, nên có thể tin chắc vào việc được giải thoát.

Thử làm một so sánh nhỏ. Người tu thiền giống như kẻ học bơi để bơi qua con sông rộng. Nếu bền chí và đủ sức lực thì tất sẽ vượt qua được. Còn người tu pháp môn niệm Phật như người nhờ ghe thuyền mà sang sông. Dù không được mạnh mẽ lắm, chỉ cần quyết chí sang sông tất cũng có thể sang được. Ghe thuyền, ấy chính là sức hộ niệm của đức Phật. Nhờ sức ấy mà người tu dễ dàng hơn trong việc đạt đến chỗ giải thoát.

Người cư sĩ sau khi đã quy y Tam bảo, nếu vun đắp được niềm tin ngày càng sâu vững, giữ trọn được Năm giới đã thọ nhận, thì tự nhiên sẽ cảm nhận được sức cảm hóa rất vi diệu của Phật pháp, lại nếu biết chọn pháp môn niệm Phật để hành trì thường xuyên, thì chắc chắn sẽ trừ diệt được hết thảy phiền não, khổ ách. Đạo Phật là đạo giải thoát. Và sự giải thoát ấy là dành cho tất cả mọi người chứ không phải chỉ dành riêng cho những bậc xuất gia.

Cư sĩ tuy còn nhiều vướng bận trong cuộc sống gia đình, nhưng nếu quyết lòng tu họcthực hành Phật pháp thì cũng sẽ đạt được những kết quả tốt đẹp, ngày càng hướng đến một cuộc sống cao thượng, thanh thoát hơn.


Ý kiến bạn đọc
08 Tháng Sáu 202000:59
Khách
Dạ hoan hỷ
24 Tháng Bảy 201908:03
Khách
Xin gửi cho tôi một bộ sách
TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29892)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27178)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21767)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22233)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20054)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21948)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24751)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18988)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24761)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30974)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23987)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27764)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26511)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21314)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23224)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38127)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19976)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19045)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23168)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23879)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22800)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22910)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29572)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20641)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18709)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15847)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18857)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19679)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20153)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19954)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18117)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22932)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34166)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16418)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16918)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39245)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26068)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20098)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18851)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24060)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29140)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22902)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30958)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21008)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26851)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20678)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26266)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23324)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19818)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24675)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30037)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20221)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20404)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15829)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23896)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant