Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

III. Mười bảy pháp Tăng-Già Bà-thi-sa

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 13014)
III. Mười bảy pháp Tăng-Già Bà-thi-sa

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

GIỚI LUẬT TỲ-KHEO NI

III. MƯỜI BẢY PHÁP TĂNG-GIÀ BÀ-THI-SA

_ Kính bạch chư đại tỷ tăng. Mười bảy pháp tăng-già bà-thi-sa này, nửa tháng phải tụng đọc một lần, được rút từ trong Giới kinh ra.

1. Như có tỳ-kheo ni nào đi lại làm môi giới giữa đôi bên trai gái, chuyển lời qua lại giữa đôi bên, hoặc sau thành chồng vợ, hoặc chỉ dan díu cùng nhau, dù là thoáng chốc. Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

2. Như có tỳ-kheo ni nào, vì sự giận tức không vui, vô cớ vu cáo cho người khác là phạm tội ba-la-di, vì muốn hủy hoại sự trong sạch của người ấy. Thời gian sau, hoặc có người hỏi hoặc không có người hỏi, tỳ-kheo ni ấy tự biết mình vô cớ vu cáo nên nói ra rằng: “Điều ấy là do tôi tức giận mà nói như vậy thôi.” Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

3. Như có tỳ-kheo nào, vì sự giận tức không vui, dựa vào những căn cứ mà tự mình biết là sai lệch, không đúng, để vu cáo cho người khác là phạm tội ba-la-di, vì muốn hủy hoại sự trong sạch của người ấy. Thời gian sau, hoặc có người hỏi hoặc không có người hỏi, tỳ-kheo ni ấy tự biết mình đã dựa vào những chứng cứ sai lệch, không đúng, nên nói ra rằng: “Điều ấy là do tôi tức giận mà nói như vậy thôi.” Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

4. Như có tỳ-kheo ni nào tự đến cửa quan mà thưa kiện, tranh chấp với một người thế tục, hoặc con cái, người hầu... của người thế tục, dù là vì chuyện gì, dù là vào lúc nào. Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

5. Như có tỳ-kheo ni nào biết người nữ phạm tội đáng chết, mọi người đều rõ. Biết như vậy mà không đến hỏi trước nơi quan chức, không tra xét trong dòng họ, lại độ cho người nữ ấy xuất gia thọ cụ túc giới. Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

6. Như có tỳ-kheo ni nào biết tỳ-kheo ni khác phạm giới, chúng tăng đã theo đúng pháp, đúng luật, đúng lời Phật dạy chỉ bảo cho mà không chịu nghe theo, không chịu sám hối. Chúng tăng vì thế chưa cho phép người ấy được cùng ở chung. Tỳ-kheo ni tuy biết như vậy, mà vì lòng ái luyến nên không thưa hỏi chúng tăng, chúng tăng cũng không sai khiến, lại tự ý làm phép yết-ma giải tội cho tỳ-kheo ni kia. Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

7. Như có tỳ-kheo ni nào, đi một mình vượt qua dòng nước, hoặc một mình vào trong thôn xóm, hoặc ngủ đêm một mình, hoặc một mình đi sau tất cả mọi người. Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

8. Như có tỳ-kheo ni nào, khởi tâm ô nhiễm, biết một người nam cũng khởi tâm ô nhiễm, nhận lãnh vật thực, đồ dùng từ người ấy. Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

9. Như có tỳ-kheo ni nào nói với tỳ-kheo ni khác rằng: “Đại tỷ, người kia dù có tâm ô nhiễm, nếu mình không có tâm ô nhiễm thì đâu có hại gì. Nếu mình không có tâm ô nhiễm, như người khởi tâm ô nhiễm trao vật thực cho mình, chỉ lấy tâm thanh tịnh mà thọ nhận là được.” Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

10. Như có tỳ-kheo ni nào muốn phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng, thực hiện việc phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng, theo các pháp phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng, rồi cố giữ mãi không từ bỏ. Những tỳ-kheo khác nên can ngăn rằng: “Đại tỷ, không nên muốn phá sự hòa hiệp của chúng tăng, không nên thực hiện việc phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng. Không nên theo những pháp phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng rồi cố giữ mãi không từ bỏ. Đại tỷ nên cùng với chúng tăng sống hòa hiệp, vui vẻ, không tranh cãi nhau. Cùng theo học một thầy, nên hòa hợp nhau như sữa hòa trong nước, như vậy mới cùng được thêm phần lợi ích, cùng sống yên vui trong pháp Phật.”

Nếu tỳ-kheo ni ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

11. Như có tỳ-kheo ni có bè đảng, hoặc một người, hoặc hai, ba người cho đến rất nhiều người. Các tỳ-kheo ni bè đảng nói với chúng tỳ-kheo ni rằng: “Đại tỷ, xin đừng can ngăn vị ấy. Vị ấy nói ra đúng Chánh pháp, đúng Giới luật. Những điều vị ấy nói ra làm cho chúng tôi vui thích, có thể chấp nhận được.”

Các vị tỳ-kheo ni nên can ngăn tỳ-kheo ni tán trợ ấy rằng: “Đại tỷ chớ nên nói như thế. Chớ nên nói rằng tỳ-kheo ni ấy nói đúng Chánh pháp, nói đúng Giới luật, nói điều có thể vui thích, chấp nhận được. Thật ra tỳ-kheo ni ấy nói những điều trái Chánh pháp, trái Giới luật. Đại tỷ, xin đừng mong muốn phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng. Chúng ta nên cùng với chúng tăng sống hòa hiệp, vui vẻ, không tranh cãi nhau. Cùng theo học một thầy, nên hòa hợp nhau như sữa hòa trong nước, như vậy mới cùng được thêm phần lợi ích, cùng sống yên vui trong pháp Phật.”

Nếu tỳ-kheo ni sai lầm ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

12. Như có tỳ-kheo ni nào đến ở trong thôn xóm, làm ô uế nhà thiện tín, cùng làm những việc xấu ai ai cũng thấy biết. Các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn tỳ-kheo ni ấy rằng: “Đại tỷ làm ô uế nhà thiện tín, cùng làm những việc xấu ai ai cũng thấy biết, nay nên rời bỏ chỗ thôn xóm này, không nên ở đây nữa.”

Tỳ-kheo ni ấy đáp rằng: “Đại tỷ, nay các tỳ-kheo ni đều có yêu, có giận, có sợ, có ngu si; cũng có những tỳ-kheo ni đồng tội như vậy, sao có người lại bị đuổi, có người không bị đuổi.”

Các tỳ-kheo ni khác lại can ngăn rằng: “Đại tỷ không nên nói như vậy. Không nên nói chư tỳ-kheo ni có yêu, có giận, có sợ, có ngu si, có những người đồng tội như vậy, có người bị đuổi, có người không bị đuổi. Quả thật chư tỳ-kheo ni không có yêu, có giận, có sợ, có ngu si. Đại tỷ làm ô uế nhà thiện tín, làm những việc xấu ai ai cũng thấy biết.”

Nếu tỳ-kheo ni sai lầm ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

13. Như có tỳ-kheo ni nào tánh tình xấu ác, với những việc trong giới pháp chẳng chịu nghe lời người khác. Các tỳ-kheo ni khác đã theo đúng pháp mà can ngăn, nhưng tỳ-kheo ni ấy tự thân không nghe, còn nói rằng: “Các vị đại tỷ, xin đừng nói những chuyện tốt xấu của tôi. Tôi cũng không nói những chuyện tốt xấu của các vị. Xin các vị hãy thôi đi, đừng nhiều lần can ngăn tôi như thế.”

Các tỳ-kheo ni khác lại can ngăn rằng: “Đại tỷ, không nên tự mình chẳng chịu nghe lời can ngăn của kẻ khác. Đại tỷ nên biết nghe lời can ngăn. Chúng ta nên theo đúng pháp mà can ngăn lẫn nhau, biết tự nhận lỗi mình mà sám hối, có như vậy thì hết thảy đệ tử của Phật đều được tăng thêm phần lợi ích.”

Nếu tỳ-kheo ni sai lầm ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

14. Như có hai tỳ-kheo ni cùng sống chung với nhau, cùng làm những việc xấu ác, tiếng xấu lan rộng khắp nơi, lại tìm cách che giấu tội lỗi cho nhau. Chư tỳ-kheo ni khác nên can ngăn rằng: “Các đại tỷ, xin đừng sống chung với nhau, cùng làm những việc xấu ác, tiếng xấu lan rộng khắp nơi, lại tìm cách che giấu tội lỗi cho nhau. Các vị nếu không sống chung nhau như vậy mới cùng được thêm phần lợi ích, cùng sống yên vui trong pháp Phật.”

Nếu hai tỳ-kheo ni sai lầm ấy nghe lời can ngăn, mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

15. Như có tỳ-kheo ni nào, đối với hai tỳ-kheo ni phạm tội đã bị chúng tăng phạt biệt trụ, nói lời như thế này: “Các vị không cần phải sống cách biệt như thế, nên sống chung với nhau. Tôi thấy có những tỳ-kheo ni khác không sống cách biệt, cũng sống chung thân cận nhau, cũng cùng làm những việc xấu ác, tiếng xấu lan rộng khắp nơi, lại tìm cách che giấu tội lỗi cho nhau. Chúng tăng vì giận ghét nên mới buộc các vị phải sống cách biệt đó thôi.”

Các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn rằng: “Đại tỷ, xin đừng nói như vậy với các tỳ-kheo ni ấy. Thật chỉ có hai tỳ-kheo ni ấy sống chung nhau, cùng làm những việc xấu ác, tiếng xấu lan rộng khắp nơi, lại tìm cách che giấu tội lỗi cho nhau, ngoài ra chẳng còn ai khác phạm tội như vậy. Nếu hai tỳ-kheo ni ấy sống cách biệt, mới cùng được thêm phần lợi ích, cùng sống yên vui trong pháp Phật.”

Nếu tỳ-kheo ni sai lầm ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

16. Như có tỳ-kheo ni nào, vì một nguyên nhân nhỏ, sanh lòng giận tức không vui, nói rằng: “Tôi nay bỏ chẳng theo Phật, chẳng theo Pháp, chẳng theo Tăng. Chẳng phải chỉ riêng có một đạo Phật, còn có những đạo khác cũng tu hành giữ hạnh trong sạch. Tôi nay có thể theo các đạo ấy.”

Các vị tỳ-kheo ni nên can ngăn rằng: “Đại tỷ, không nên vì một chuyện nhỏ, sanh lòng giận tức không vui mà nói ra lời như vậy.”

Nếu tỳ-kheo ni sai lầm ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

17. Như có tỳ-kheo ni nào tánh tình ưa gây gổ tranh chấp không tốt, sau ghi nhớ lấy sự tranh chấp ấy, sanh lòng sân hận, nói ra lời này: “Chúng tăng có yêu, có giận, có sợ, có ngu si.”

Các vị tỳ-kheo ni nên can ngăn rằng: “Đại tỷ tánh tình ưa gây gổ tranh chấp không tốt, sau ghi nhớ lấy sự tranh chấp ấy, lại nói rằng chúng tăng có yêu, có giận, có sợ, có ngu si. Thật ra chúng tăng không có yêu, có giận, có sợ, có ngu si.”

Nếu tỳ-kheo ni sai lầm ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

_ Kính bạch chư đại tỷ. Tôi đã thuyết xong mười bảy pháp tăng-già bà-thi-sa. Chín pháp đầu là phạm vào thành tội ngay, tám pháp sau là qua ba lần can ngăn mới thành tội. Như có tỳ-kheo ni nào phạm vào một trong các pháp tăng-già bà-thi-sa này, phải đối trước hai bộ chúng tăng và ni mà thực hành phép cấm phòng trong nửa tháng. Sau đó, phải làm nghi thức xuất tội, có sự tham dự của ít nhất là 40 vị tỳ-kheo và tỳ-kheo ni thanh tịnh. Nếu không đủ số 40 vị tỳ-kheo và tỳ-kheo ni thanh tịnh mà làm nghi thức xuất tội, thì tội ấy chẳng những không được tiêu trừ, mà các vị tham gia cũng đáng quở trách.

Với mười bảy pháp tăng-già bà-thi-sa này, xin hỏi chư đại tỷ, trong chúng đây có được thanh tịnh hay chăng?

Người thuyết giới lập lại câu hỏi này ba lần. Nếu có ai nhớ ra mình đã phạm vào các giới này thì phải tự nhận. Nếu không thì tất cả đều yên lặng.

_ Kính bạch chư đại tỷ, vì các vị đều lặng yên, nên xem như trong chúng đây hết thảy đều thanh tịnh. Việc này xin được hiểu như vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29892)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27174)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21766)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22227)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20053)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21948)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24745)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18986)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24739)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30972)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23984)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27763)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26510)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21309)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23220)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38126)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18436)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19957)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19041)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23147)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23876)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22789)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22907)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29568)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20636)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18709)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15847)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18854)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19658)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20150)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19952)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18117)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22928)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34166)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16418)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16917)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39243)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26064)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20097)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18849)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24057)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29129)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22900)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30950)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21007)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26850)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20677)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26265)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23322)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19817)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24672)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30032)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20220)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20402)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15829)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23878)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant