Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

VII. Một trăm pháp cần phải học

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 11019)
VII. Một trăm pháp cần phải học

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

GIỚI LUẬT TỲ-KHEO NI

VII. MỘT TRĂM PHÁP CẦN PHẢI HỌC

_ Kính bạch chư đại tỷ. Một trăm pháp cần phải học này, nửa tháng phải tụng đọc lại một lần, được rút từ trong Giới kinh ra.

1. Quấn tấm nội y phải ngay ngắn. Điều này cần phải học.

2. Khi mặc năm tấm y vào phải cho ngay ngắn. Điều này cần phải học.

3. Khi đi vào nhà cư sĩ, không được vắt y ngược lên hai vai. Điều này cần phải học.

4. Khi đi vào nhà cư sĩ, không được vắt y ngược lên hai vai mà ngồi. Điều này cần phải học.

5. Khi đi vào nhà cư sĩ, không được quấn y quanh cổ. Điều này cần phải học.

6. Khi đi vào nhà cư sĩ, không được quấn y quanh cổ mà ngồi. Điều này cần phải học.

7. Khi đi vào nhà cư sĩ, không được che trùm đầu. Điều này cần phải học.

8. Khi đi vào nhà cư sĩ, không được che trùm đầu mà ngồi. Điều này cần phải học.

9. Khi đi vào nhà cư sĩ, không được vừa đi vừa nhảy. Điều này cần phải học.

10. Không được vừa đi vừa nhảy vào nhà cư sĩ ngồi. Điều này cần phải học.

11. Không được ngồi xổm trong nhà cư sĩ. Điều này cần phải học.

12. Khi đi vào nhà cư sĩ, không được chống tay ngang hông. Điều này cần phải học.

13. Khi đi vào nhà cư sĩ ngồi, không được chống tay ngang hông. Điều này cần phải học.

14. Khi đi vào nhà cư sĩ, không được vừa đi vừa lắc lư thân hình. Điều này cần phải học.

15. Khi đi vào nhà cư sĩ ngồi, không được vừa đi vừa lắc lư thân hình. Điều này cần phải học.

16. Khi đi vào nhà cư sĩ, không được vừa đi vừa vung vẩy cánh tay. Điều này cần phải học.

17. Khi đi vào nhà cư sĩ ngồi, không được vừa đi vừa vung vẩy cánh tay. Điều này cần phải học.

18. Khi đi vào nhà cư sĩ, phải khéo đắp y che thân kín đáo. Điều này cần phải học.

19. Khi đi vào nhà cư sĩ ngồi, phải khéo đắp y che thân kín đáo. Điều này cần phải học.

20. Khi đi vào nhà cư sĩ, phải nhìn thẳng, không được liếc ngó, ngoái nhìn hai bên. Điều này cần phải học.

21. Khi đi vào nhà cư sĩ ngồi, phải nhìn thẳng, không được liếc ngó, ngoái nhìn sang hai bên. Điều này cần phải học.

22. Khi đi vào nhà cư sĩ, phải giữ thái độ điềm đạm, tĩnh lặng. Điều này cần phải học.

23. Khi đi vào nhà cư sĩ ngồi, phải giữ thái độ điềm đạm, tĩnh lặng. Điều này cần phải học.

24. Khi đi vào nhà cư sĩ, không được vừa đi vừa cười đùa bỡn cợt. Điều này cần phải học.

25. Khi đi vào nhà cư sĩ ngồi, không được vừa đi vừa cười đùa bỡn cợt. Điều này cần phải học.

26. Khi nhận thức ăn phải dụng tâm chú ý, không được suy nghĩ lơ đểnh. Điều này cần phải học.

27. Chỉ nhận cơm vừa ngang bát, không quá đầy. Điều này cần phải học.

28. Chỉ nhận canh vừa ngang bát, không quá đầy. Điều này cần phải học.

29. Khi ăn phải dùng cả cơm lẫn canh đều nhau. Điều này cần phải học.

30. Khi ăn phải theo thứ lớp trong bát mà ăn. Điều này cần phải học.

31. Khi ăn không được moi nơi giữa bát mà ăn. Điều này cần phải học.

32. Nếu tỳ-kheo ni không có bệnh, không được tự đòi hỏi cơm canh cho mình. Điều này cần phải học.

33. Không được lấy cơm che trên canh để mong được nhận thêm. Điều này cần phải học.

34. Không được liếc nhìn so sánh thức ăn trong bát mình với của người khác rồi khởi tâm ganh tỵ. Điều này cần phải học.

35. Khi ăn phải nhìn nơi bát và giữ tâm chuyên chú vào đó. Điều này cần phải học.

36. Không được ăn miếng quá lớn. Điều này cần phải học.

37. Không được há miệng sớm trước khi đưa thức ăn vào. Điều này cần phải học.

38. Không được ngậm thức ăn trong miệng mà nói chuyện. Điều này cần phải học.

39. Không được thảy thức ăn từ bên ngoài vào miệng. Điều này cần phải học.

40. Khi ăn không được để rơi vãi thức ăn. Điều này cần phải học.

41. Không được ngậm thức ăn trong miệng đến phồng má lên. Điều này cần phải học.

42. Không được nhai thức ăn phát ra tiếng lớn. Điều này cần phải học.

43. Không được lùa, húp thức ăn quá mạnh. Điều này cần phải học.

44. Không được dùng lưỡi liếm thức ăn. Điều này cần phải học.

45. Không được rảy tay trong khi ăn. Điều này cần phải học.

46. Không được dùng tay nhặt thức ăn rơi rớt mà ăn. Điều này cần phải học.

47. Tay dơ không được cầm nắm vào vật đựng thức ăn. Điều này cần phải học.

48. Không được rửa bát đổ nước trong nhà thí chủ. Điều này cần phải học.

49. Không được đại, tiểu tiện hoặc hỉ mũi, khạc nhổ lên trên rau cỏ sống, trừ khi do có bệnh. Điều này cần phải học.

50. Không được đại, tiểu tiện hoặc hỉ mũi, khạc nhổ trong nước sạch, trừ khi do có bệnh. Điều này cần phải học.

51. Không được đứng mà đại, tiểu tiện, trừ khi do có bệnh. Điều này cần phải học.

52. Không thuyết pháp với người vắt áo ngược lên, không cung kính, trừ khi do người ấy có bệnh. Điều này cần phải học.

53. Không thuyết pháp với người quấn áo quanh cổ, trừ khi do người ấy có bệnh. Điều này cần phải học.

54. Không thuyết pháp với người che trùm đầu, trừ khi do người ấy có bệnh. Điều này cần phải học.

55. Không thuyết pháp với người quấn khăn kín đầu, trừ khi do người ấy có bệnh. Điều này cần phải học.

56. Không thuyết pháp với người đứng chống tay vào hông, trừ khi do người ấy có bệnh. Điều này cần phải học.

57. Không thuyết pháp với người mang dép da, trừ khi do người ấy có bệnh. Điều này cần phải học.

58. Không thuyết pháp với người đi guốc gỗ, trừ khi do người ấy có bệnh. Điều này cần phải học.

59. Không thuyết pháp với người đang cưỡi ngựa, ngồi xe, trừ khi do người ấy có bệnh. Điều này cần phải học.

60. Không được ngủ nghỉ trong tháp thờ Phật, trừ khi đang làm nhiệm vụ canh giữ. Điều này cần phải học.

61. Không được cất giữ tiền bạc, vật quý giá trong tháp thờ Phật, trừ khi là vì để cho được bền chắc. Điều này cần phải học.

62. Không được mang giày, dép da đi vào tháp thờ Phật. Điều này cần phải học.

63. Không được cầm giày, dép da trên tay đi vào tháp thờ Phật. Điều này cần phải học.

64. Không được mang giày, dép da đi nhiễu quanh tháp thờ Phật. Điều này cần phải học.

65. Không được mang hài phú-la đi vào tháp thờ Phật. Điều này cần phải học.

66. Không được cầm hài phú-la trên tay đi vào tháp thờ Phật. Điều này cần phải học.

67. Không được ngồi ăn bên dưới tháp thờ Phật, trải cỏ và bỏ thức ăn thừa làm dơ đất. Điều này cần phải học.

68. Không được khiêng xác người chết đi ngang qua bên dưới tháp thờ Phật. Điều này cần phải học.

69. Không được chôn xác người chết bên dưới tháp thờ Phật. Điều này cần phải học.

70. Không được thiêu xác người chết bên dưới tháp thờ Phật. Điều này cần phải học.

71. Không được quay về hướng tháp thờ Phật mà thiêu xác người chết. Điều này cần phải học.

72. Không được thiêu xác người chết ở gần chung quanh tháp thờ Phật, khiến cho mùi hôi bay vào trong tháp. Điều này cần phải học.

73. Không được mang các vật dụng của người chết như y phục, giường nằm... đi ngang qua bên dưới tháp Phật, trừ khi đã giặt sạch, nhuộm lại và xông ướp hương. Điều này cần phải học.

74. Không được đại, tiểu tiện bên dưới tháp thờ Phật. Điều này cần phải học.

75. Không được quay về hướng tháp thờ Phật mà đại, tiểu tiện. Điều này cần phải học.

76. Không được ở quanh bốn phía tháp thờ Phật mà đại, tiểu tiện, khiến cho mùi hôi bay vào trong tháp. Điều này cần phải học.

77. Không được mang theo tượng Phật đến chỗ đại, tiểu tiện. Điều này cần phải học.

78. Không được xỉa răng, chải răng, súc miệng bên dưới tháp thờ Phật. Điều này cần phải học.

79. Không được quay về hướng tháp thờ Phật mà xỉa răng, chải răng, súc miệng. Điều này cần phải học.

80. Không được đi quanh tháp Phật mà xỉa răng, chải răng, súc miệng. Điều này cần phải học.

81. Không được ở bên dưới tháp thờ Phật mà khạc nhổ. Điều này cần phải học.

82. Không được quay về hướng tháp Phật mà khạc nhổ. Điều này cần phải học.

83. Không được ở quanh bốn phía tháp thờ Phật mà khạc nhổ. Điều này cần phải học.

84. Không được ngồi duỗi chân hướng về phía tháp thờ Phật. Điều này cần phải học.

85. Không được thờ tượng Phật ở phòng dưới còn mình ở phòng trên. Điều này cần phải học.

86. Không đứng mà thuyết pháp với người ngồi, trừ khi do người ấy có bệnh. Điều này cần phải học.

87. Không ngồi mà thuyết pháp với người nằm, trừ khi do người ấy có bệnh. Điều này cần phải học.

88. Khi không ngồi trên tòa không thuyết pháp với người ngồi trên tòa, trừ khi do người ấy có bệnh. Điều này cần phải học.

89. Khi ngồi nơi chỗ thấp không thuyết pháp với người ngồi ở chỗ cao, trừ khi do người ấy có bệnh. Điều này cần phải học.

90. Khi đi phía sau không thuyết pháp với người đi trước, trừ khi do người ấy có bệnh. Điều này cần phải học.

91. Khi đang đi kinh hành dưới thấp không thuyết pháp với người đi kinh hành trên cao, trừ khi do người ấy có bệnh. Điều này cần phải học.

92. Khi đang đứng bên lề đường không thuyết pháp với người đứng giữa đường, trừ khi do người ấy có bệnh. Điều này cần phải học.

93. Khi đi đường không được nắm tay người khác mà đi. Điều này cần phải học.

94. Không được leo lên cây cao quá đầu người, trừ khi có nhân duyên thích hợp. Điều này cần phải học.

95. Không được để bình bát trong túi vải, buộc vào đầu gậy quảy trên vai mà đi. Điều này cần phải học.

96. Không thuyết pháp với người cầm gậy, chẳng có lòng cung kính, trừ khi do người ấy có bệnh. Điều này cần phải học.

97. Không thuyết pháp với người cầm gươm, trừ khi do người ấy có bệnh. Điều này cần phải học.

98. Không thuyết pháp với người cầm giáo, trừ khi do người ấy có bệnh. Điều này cần phải học.

99. Không thuyết pháp với người cầm đao, trừ khi do người ấy có bệnh. Điều này cần phải học.

100. Không thuyết pháp với người đang cầm dù che, trừ khi do người ấy có bệnh. Điều này cần phải học.

_ Kính bạch chư đại tỷ. Tôi đã thuyết xong một trăm pháp thức-xoa-ca-la-ni, xin hỏi chư đại tỷ, trong ni chúng đây có được thanh tịnh hay chăng?

Người thuyết giới lập lại câu hỏi này ba lần. Nếu có ai nhớ ra mình đã phạm vào các giới này thì phải tự nhận. Nếu không thì tất cả đều yên lặng.

_ Kính bạch chư đại tỷ, vì các vị đều lặng yên, nên xem như trong ni chúng đây hết thảy đều thanh tịnh. Việc này xin được hiểu như vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29866)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27125)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21747)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22217)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23595)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20392)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20036)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21924)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24719)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18955)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24696)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30946)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23955)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27747)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26492)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21281)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23197)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38086)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18796)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18418)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19922)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19012)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23125)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23861)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22772)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22888)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29553)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20617)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18683)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15825)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18821)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19632)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20134)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19926)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18100)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22897)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34147)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16404)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16903)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39181)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26022)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20077)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18809)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24032)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29085)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22895)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30916)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20995)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26831)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20651)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26228)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23308)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19809)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24633)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29977)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20197)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20390)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15130)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15816)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23845)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant