Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

VI. Chín mươi pháp Ba-dật-đề

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 11031)
VI. Chín mươi pháp Ba-dật-đề

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

GIỚI LUẬT TỲ-KHEO

VI. CHÍN MƯƠI PHÁP BA-DẬT-ĐỀ

_ Kính bạch chư đại đức tăng. Chín mươi pháp ba-dật-đề này, nửa tháng phải tụng đọc lại một lần, được rút từ trong Giới kinh ra.

1. Như có tỳ-kheo nào biết là điều sai sự thật mà vẫn nói ra, phạm vào tội ba-dật-đề.

2. Như có tỳ-kheo nào vì lý do chủng tộc, giai cấp mà dùng lời hủy nhục người, phạm vào tội ba-dật-đề.

3. Như có tỳ-kheo nào dùng cách nói hai lưỡi, phạm vào tội ba-dật-đề.

4. Như có tỳ-kheo nào ngủ lại trong nhà có phụ nữ qua đêm, phạm vào tội ba-dật-đề.

5. Như có tỳ-kheo nào cùng với người chưa thọ giới cụ túc mà ngủ chung trong một nhà quá hai đêm, đến đêm thứ ba thì phạm vào tội ba-dật-đề.

6. Như có tỳ-kheo nào cùng với người chưa thọ cụ túc giới đọc tụng kinh điển, phạm vào tội ba-dật-đề.

7. Như có tỳ-kheo nào đem việc phạm tội thô ác của tỳ-kheo khác nói với người chưa thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợp do chúng tăng quyết định.

8. Như có tỳ-kheo nào đem việc mình chứng đắc hơn người nói với người chưa thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

9. Như có tỳ-kheo nào thuyết pháp quá năm, sáu câu với phụ nữ, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợp có người đàn ông sáng suốt cùng ở đó.

10. Như có tỳ-kheo nào tự tay đào xới đất, hoặc sai bảo người khác làm, phạm vào tội ba-dật-đề.

11. Như có tỳ-kheo nào phá hại mầm giống cho đến cây cỏ đang còn sống, phạm vào tội ba-dật-đề.

12. Như có tỳ-kheo nào cố ý nói quanh co gây phiền toái cho chúng tăng, phạm vào tội ba-dật-đề.

13. Như có tỳ-kheo nào chê bai sau lưng hoặc mạ lỵ trước mặt đối với vị tăng tri sự, phạm vào tội ba-dật-đề.

14. Như có tỳ-kheo nào tự mình lấy, hoặc nhờ người khác lấy các vật dụng của chúng tăng như ghế, giường, ngọa cụ, tọa cụ mang ra chỗ trống để dùng. Khi dùng xong, trước khi rời đi không dẹp cất lại chỗ cũ, cũng không nhờ người khác dẹp cất lại, phạm vào tội ba-dật-đề.

15. Như có tỳ-kheo nào tự mình lấy, hoặc nhờ người khác lấy các vật dụng của chúng tăng như ghế, giường, ngọa cụ, tọa cụ bày ra trong phòng của tăng để dùng. Khi dùng xong, trước khi rời đi không dẹp cất lại chỗ cũ, cũng không nhờ người khác dẹp cất, phạm vào tội ba-dật-đề.

16. Như có tỳ-kheo nào, biết chỗ nghỉ của tỳ-kheo khác, khi đến sau lại mang ngọa cụ trải ra mà nằm, tự nghĩ rằng: “Nếu ông ấy có chê là chật chội thì cứ việc tránh ta mà đi nơi khác.” Nhân duyên hành động như vậy không hợp với oai nghi, phạm vào tội ba-dật-đề.

17. Như có tỳ-kheo nào do tức giận tỳ-kheo khác, trong lòng không vui, liền xô đuổi hoặc sai khiến người khác xô đuổi tỳ-kheo ấy ra khỏi tăng phòng, phạm vào tội ba-dật-đề.

18. Như có tỳ-kheo nào nằm hoặc ngồi trên giường bị lỏng chân, phạm vào tội ba-dật-đề.

19. Như có tỳ-kheo nào biết là nước có trùng mà tự mình đổ lên bùn đất, hoặc tưới trên cỏ, hoặc sai bảo người khác làm như vậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

20. Như có tỳ-kheo nào làm phòng lớn có cửa song, cửa sổ và các vật trang hoàng, chỉ được lợp mái từ hai đến ba lớp. Nếu quá mức, phạm vào tội ba-dật-đề.

21. Như có tỳ-kheo nào, chúng tăng không đề cử mà tự ý đến dạy giáo pháp cho tỳ-kheo ni, phạm vào tội ba-dật-đề.

22. Như có tỳ-kheo nào, được chúng tăng đề cử đến dạy giáo pháp cho tỳ-kheo ni, đến chiều tối mới về, phạm vào tội ba-dật-đề.

23. Như có tỳ-kheo nào nói rằng các tỳ-kheo khác vì chuyện ăn uống mà đi dạy giáo pháp cho tỳ-kheo ni, phạm vào tội ba-dật-đề.

24. Như có tỳ-kheo nào đem y cho tỳ-kheo ni, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợp trao đổi với nhau, hoặc tỳ-kheo ni đó là người bà con thân thuộc.

25. Như có tỳ-kheo nào vì tỳ-kheo ni mà may y, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợp tỳ-kheo ni đó là người bà con thân thuộc.

26. Như có tỳ-kheo nào cùng ngồi ở chỗ khuất vắng với tỳ-kheo ni, phạm vào tội ba-dật-đề.

27. Như có tỳ-kheo nào cùng với tỳ-kheo ni hẹn trước với nhau để cùng đi chung đường đến thôn khác, cho đến thậm chí chỉ trong phạm vi một thôn, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợp cùng đi với đoàn khách buôn, hoặc khi lo sợ có nguy hiểm trên đường.

28. Như có tỳ-kheo nào cùng với tỳ-kheo ni hẹn trước với nhau để cùng đi thuyền xuôi dòng hoặc ngược dòng, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợp đi thuyền ngang qua sông.

29. Như tỳ-kheo nào biết có tỳ-kheo ni vì mình mà đến nói với thí chủ nên người ấy mới cúng dường thức ăn cho mình, vẫn thọ nhận thức ăn ấy, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợp người thí chủ ấy đã phát tâm cúng dường từ trước.

30. Như có tỳ-kheo nào hẹn trước với người phái nữ để cùng đi chung đường, dù chỉ trong phạm vi một thôn, phạm vào tội ba-dật-đề.

31. Như có tỳ-kheo nào đến chỗ thí chủ cúng dường một bữa ăn, không có bệnh chỉ được thọ nhận một bữa. Nếu quá, phạm vào tội ba-dật-đề.

32. Như có tỳ-kheo nào thọ thỉnh ăn nhiều lần trong ngày, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ các trường hợp có bệnh, hoặc khi thí chủ cúng y.

33. Như có tỳ-kheo nào thọ thỉnh ăn thành chúng riêng, phạm tội ba-dật-đề. Trừ các trường hợp như khi có bệnh, khi may y, khi nhận cúng y, khi đi đường xa, khi đi tàu thuyền, khi đại chúng tụ họp đông đảo, khi các thầy tu ngoại đạo cúng dường.

34. Như tỳ-kheo thọ thỉnh cúng dường ở nhà cư sĩ, có bánh hoặc lương khô, nếu muốn có thể nhận đến hai hoặc ba bát mang về chùa phân chia cho các tỳ-kheo khác cùng ăn. Như tỳ-kheo không có bệnh mà thọ nhận nhiều hơn hai hoặc ba bát, khi về chùa không phân chia cho các tỳ-kheo khác cùng ăn, phạm tội ba-dật-đề.

35. Như có tỳ-kheo nào đã ăn đủ rồi, nếu có thọ thỉnh, không làm phép dư thực mà ăn nữa, phạm tội ba-dật-đề.

36. Như có tỳ-kheo nào, biết tỳ-kheo khác đã ăn đủ trong ngày rồi, khi thọ thỉnh không làm phép dư thực, lại cố ân cần mời thỉnh vị ấy ăn nữa, không vì mục đích gì khác hơn là muốn cho vị kia phạm giới mà thôi. Tỳ-kheo như vậy phạm vào tội ba-dật-đề.

37. Như có tỳ-kheo nào thọ nhận thức ăn và ăn phi thời, phạm vào tội ba-dật-đề.

38. Như có tỳ-kheo nào ăn thức ăn được chứa trữ từ hôm trước, phạm vào tội ba-dật-đề.

39. Như có tỳ-kheo nào, không phải thức ăn hoặc thuốc cúng dường cho mình mà để vào trong miệng, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ ra nước và nhành dương.

40. Như có tỳ-kheo nào, nếu thấy có những thức ăn ngon, tự mình đòi hỏi được ăn, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợp do có bệnh.

41. Như có tỳ-kheo nào tự tay trao thức ăn để thí cho người ngoại đạo, phạm vào tội ba-dật-đề.

42. Như có tỳ-kheo nào trước đã thọ thỉnh cúng dường, sau đó trước hoặc sau giờ thọ thực lại đến nhà khác mà không báo cho tỳ-kheo khác biết, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ các trường hợp như có bệnh, hoặc khi nhận cúng y, khi may y.

43. Như có tỳ-kheo nào khất thực trong nhà có đồ quý giá, cố ngồi nán lại, phạm vào tội ba-dật-đề.

44. Như có tỳ-kheo nào khất thực trong nhà có đồ quý giá mà ngồi nơi chỗ khuất kín, phạm vào tội ba-dật-đề.

45. Như có tỳ-kheo nào một mình ngồi với phụ nữ ở chỗ trống trải, phạm vào tội ba-dật-đề.

46. Như có tỳ-kheo nào bảo tỳ-kheo khác cùng đi với mình đến chỗ thôn xóm kia, nói rằng có thể nhận được thức ăn. Đến nơi không có thức ăn, lại nói rằng: “Ông nên đi đi. Tôi ngồi với ông, nói chuyện với ông không được vui; tôi ngồi một mình sẽ được vui vẻ.” Nói thế không ngoài mục đíchtìm cách xô đuổi vị kia đi nơi khác. Tỳ-kheo như vậy phạm vào tội ba-dật-đề.

47. Như có tỳ-kheo nào muốn nhận sự cúng dường thuốc men của thí chủ để dùng trong vòng 4 tháng, dù không bệnh cũng được nhận. Nếu nhận quá mức trên, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ các trường hợp có người phát tâm cúng dường thường xuyên, hoặc hết hạn bốn tháng rồi nhận cúng dường lần khác, hoặc thí chủ mang đến chùa phân chia cúng dường cho tăng chúng, hoặc thí chủ phát tâm cúng dường suốt đời.

48. Như có tỳ-kheo nào đến xem những chỗ quân trận, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợpnhân duyên thích hợp.

49. Như có tỳ-kheo nào có nhân duyên phải đến chỗ quân trận, có thể ở lại hai hoặc ba đêm. Nếu lâu hơn, phạm vào tội ba-dật-đề.

50. Như có tỳ-kheo nào, có nhân duyên đến chỗ quân trận, ở lại đó từ hai đến ba đêm, lại đi xem quân lính tập dượt, dàn trận, đánh nhau, phạm vào tội ba-dật-đề.

51. Như có tỳ-kheo nào uống rượu, phạm vào tội ba-dật-đề.

52. Như có tỳ-kheo nào bơi lội đùa nghịch trong nước, phạm tội ba-dật-đề.

53. Như tỳ-kheo dùng ngón tay mà chọc lẫn vào người nhau, phạm vào tội ba-dật-đề.

54. Như có tỳ-kheo nào không nghe lời can ngăn của người khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

55. Như có tỳ-kheo nào làm cho tỳ-kheo khác lo lắng, sợ sệt, phạm vào tội ba-dật-đề.

56. Như có tỳ-kheo nào trong nửa tháng tắm quá một lần, phạm tội ba-dật-đề. Trừ các trường hợp như khi trời nóng nực, khi thân thể có bệnh, khi phải làm việc nhiều, khi mưa gió, khi đi đường xa.

57. Như có tỳ-kheo nào không có bệnh nhưng vì muốn hơ ấm, ở chỗ đất trống đốt lửa, hoặc sai khiến người khác đốt, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợpnhân duyên thích hợp.

58. Như có tỳ-kheo nào mang giấu y bát, tọa cụ, ống đựng kim của tỳ-kheo khác, dù chỉ để đùa chơi, phạm vào tội ba-dật-đề.

59. Như có tỳ-kheo nào đã đem y thí cho người khác, về sau không nói với người ấy mà tự ý lấy dùng, phạm vào tội ba-dật-đề.

60. Như có tỳ-kheo nào được y mới, phải đem nhuộm cho xấu đi rồi mới dùng. Nếu không nhuộm xấu đi mà mặc vào, phạm tội ba-dật-đề.

61. Như có tỳ-kheo nào cố ý giết chết các loài động vật, phạm vào tội ba-dật-đề.

62. Như có tỳ-kheo nào biết là trong nước có trùng mà vẫn uống hoặc lấy dùng, phạm vào tội ba-dật-đề.

63. Như có tỳ-kheo nào cố ý tìm cách gây sự nghi ngờ hoang mang cho tỳ-kheo khác, khiến chẳng lúc nào được vui vẻ, phạm vào tội ba-dật-đề.

64. Như có tỳ-kheo nào biết tỳ-kheo khác phạm tội thô mà che giấu, phạm vào tội ba-dật-đề.

65. Như có tỳ-kheo nào biết người chưa đủ 20 tuổi mà nhận cho thọ giới cụ túc, người đó không được giới, chư tỳ-kheo có thể quở trách tỳ-kheo ấy vì ngu si, phạm vào tội ba-dật-đề.

66. Như có tỳ-kheo nào, biết những chuyện tranh chấp đã theo đúng pháp sám hối trừ diệt đi rồi, sau lại phát khởi lên, phạm vào tội ba-dật-đề.

67. Như có tỳ-kheo nào đã biết là kẻ gian mà cùng đi chung đường, dù chỉ là trong phạm vi một thôn, phạm vào tội ba-dật-đề.

68. Như có tỳ-kheo nào nói rằng: “Phật có nói là việc dâm dục không ngăn ngại gì cho đạo pháp.” Có tỳ-kheo khác can ngăn rằng: “Đại đức, chớ nói như thế. Chớ nên hủy báng đức Thế Tôn, như vậy là không tốt. Thế Tôn không hề nói ra lời như vậy. Ngài đã dùng vô số phương tiện để chỉ ra rằng việc dâm dục là ngăn ngại cho đạo pháp.”

can ngăn như thế, tỳ-kheo kia vẫn nhất mực không bỏ. Nên khuyên can cho đến ba lần. Nếu đến lần thứ ba mà chịu nghe thì tốt, bằng như vẫn không nghe, phạm vào tội ba-dật-đề.

69. Như có tỳ-kheo nào, tuy biết tỳ-kheo khác đã nói lời như trên, chưa sám hối theo như pháp, chỗ tà kiến ấy cũng chưa bỏ, mà vẫn cung cấp cho những thứ cần dùng, lại cùng với kẻ ấy làm phép yết-ma, ngủ nghỉ chung nhau, nói chuyện qua lại, phạm vào tội ba-dật-đề.

70. Như tỳ-kheo được biết sa-di nói ra lời này: “Phật có nói việc dâm dục không ngăn ngại gì cho đạo pháp.” Tỳ-kheo ấy liền can ngăn rằng: “Ngươi chớ nên hủy báng đức Thế Tôn, như vậy không tốt. Này sa-di, đức Thế Tôn không hề nói ra lời như vậy. Ngài đã dùng vô số phương tiện để chỉ ra rằng việc dâm dục là ngăn ngại cho đạo pháp.”

can ngăn như thế, sa-di kia vẫn nhất mực không bỏ. Tỳ-kheo ấy nên khuyên can, quở trách cho đến ba lần, buộc phải từ bỏ lời sai trái ấy. Nếu đến lần thứ ba mà chịu nghe thì tốt, bằng như vẫn không nghe, tỳ-kheo ấy nên nói như thế này: “Ngươi từ nay về sau không được gọi Phật là đức Thế Tôn của ngươi nữa, không được đi theo các tỳ-kheo, cũng không được cùng các thầy tỳ-kheo ngủ chung một nơi hai đến ba đêm như các sa-di khác. Ngươi phải đi khỏi đây, không được ở lại nữa.”

Như có tỳ-kheo nào biết sa-di đã bị đuổi đi như vậy mà còn mang về nuôi dưỡng, cùng sa-di ấy ngủ nghỉ chung nhau, nói chuyện qua lại, phạm vào tội ba-dật-đề.

71. Như tỳ-kheo nào làm điều sai trái, có tỳ-kheo khác theo đúng pháp can ngăn, liền đáp rằng: “Nay tôi không học giới này. Phải đợi chất vấn các vị tỳ-kheo khác có trí tuệ, giữ theo luật.” Tỳ-kheo ấy phạm vào tội ba-dật-đề. Như nếu thật sự vì muốn hiểu, muốn học, thì có thể chất vấn.

72. Như có tỳ-kheo nào, vào lúc thuyết giới nói rằng: “Đại đức, cần chi phải nói những giới vụn vặt ấy, chỉ làm cho người ta phải buồn phiền, hổ thẹn mà thôi.” Như vậy là nghi ngờ, khinh chê giới luật, phạm vào tội ba-dật-đề.

73. Như có tỳ-kheo nào, vào lúc thuyết giới nói rằng: “Tôi đến hôm nay mới biết trong giới pháp có điều này, từ trong Giới kinh rút ra, nửa tháng tụng đọc một lần.” Nhưng các tỳ-kheo khác thật biết rằng tỳ-kheo ấy ít nhất cũng hai hoặc ba lần ngồi nghe thuyết giới, huống là rất nhiều lần.

Tỳ-kheo ấy không phải là không biết giới. Như đã phạm tội gì thì cứ theo đúng pháp mà trị. Ngoài ra, phải ghép thêm tội không biết nữa, bảo cho biết rằng: “Trưởng lão, ông thật không được sự ích lợi, không có chỗ khéo được. Khi thuyết giới ông đã không chú tâm vào, không một lòng lắng tai nghe pháp.” Vì không biết như thế, phạm vào tội ba-dật-đề.

74. Như có tỳ-kheo nào cùng chúng tăng dự phép yết-ma rồi, sau lại nói rằng: “Các tỳ-kheo vì chỗ thân thiết mà lấy vật của chúng tăng đem cho người kia.” Như vậy phạm vào tội ba-dật-đề.

75. Như có tỳ-kheo nào, khi chúng tăng bàn việc chưa xong, tự ý bỏ đi không nói là mình thuận theo ý chung, phạm vào tội ba-dật-đề.

76. Như có tỳ-kheo nào, đã nói là mình thuận theo ý chung, nhưng về sau lại có ý hối tiếc, phạm vào tội ba-dật-đề.

77. Như có tỳ-kheo nào, biết các tỳ-kheo khác đang bất hòa nhau, nghe chuyện bên này đến nói với bên kia, phạm vào tội ba-dật-đề.

78. Như có tỳ-kheo nào, do nóng giận không vui mà đánh tỳ-kheo khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

79. Như có tỳ-kheo nào, do nóng giận không vui mà dùng tay vả, tát tỳ-kheo khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

80. Như có tỳ-kheo nào, do nóng giận mà vô cớ vu cáo tỳ-kheo khác phạm tội tăng-già bà-thi-sa, phạm vào tội ba-dật-đề.

81. Như có tỳ-kheo nào đi vào chốn cung môn lúc vua chưa ra triều, chưa kịp cất giấu của báu, bước qua ngạch cửa phạm vào tội ba-dật-đề.

82. Như có tỳ-kheo nào tự tay cầm nắm các món đồ quý hoặc trang sức giá trị, hoặc chỉ bảo, sai khiến người khác cầm giữ, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợp trong khuôn viên chùa hoặc nơi mình đang tạm nghỉ.

Nếu trong khuôn viên chùa hoặc nơi đang tạm nghỉ, tỳ-kheo có tự tay cầm nắm các món đồ quý hoặc chỉ bảo, sai khiến người khác cầm giữ, nên suy nghĩ như thế này: “Nếu chủ nhân biết mà đến sẽ giao cho.” Thật chỉ vậy chứ không có ý gì khác.

83. Như có tỳ-kheo nào đi vào thôn xóm trái giờ mà không báo cho các tỳ-kheo khác biết, phạm vào tội ba-dật-đề.

84. Như có tỳ-kheo nào làm giường nằm cao quá tám lóng tay của Phật, không tính từ chỗ vào mộng trở lên, làm xong phạm vào tội ba-dật-đề.

85. Như có tỳ-kheo nào dùng loại bông mềm nhuyễn để dồn trải lên giường, chỗ nằm, chỗ ngồi, phạm vào tội ba-dật-đề.

86. Như có tỳ-kheo nào dùng các loại xương, răng, sừng thú để khoét ra, chạm trổ làm ống đựng kim. Làm xong, phạm vào tội ba-dật-đề.

87. Như có tỳ-kheo nào may tọa cụ, nên may vừa đúng cỡ, bề dài hai gang tay Phật, bề rộng một gang rưỡi. Như cần nới rộng hơn, có thể tăng mỗi bề nửa gang. Nếu may xong rộng quá cỡ phạm vào tội ba-dật-đề.

88. Như có tỳ-kheo nào may áo để che ghẻ, nên may vừa đúng cỡ, bề dài bốn gang tay Phật, bề rộng hai gang. Nếu may xong rộng quá cỡ phạm vào tội ba-dật-đề.

89. Như có tỳ-kheo nào may áo tắm mưa, nên may vừa đúng cỡ, bề dài sáu gang tay Phật, bề rộng hai gang rưỡi. Nếu may xong rộng quá cỡ phạm vào tội ba-dật-đề.

90. Như có tỳ-kheo nào may y đồng cỡ với Như Lai hoặc lớn hơn, phạm vào tội ba-dật-đề. Cỡ y của Như Lai là bề dài chín gang tay Phật, bề rộng sáu gang.

_ Kính bạch chư đại đức. Tôi đã thuyết xong chín mươi pháp ba-dật-đề, xin hỏi chư đại đức, trong chúng tăng đây có được thanh tịnh hay chăng?

Người thuyết giới lập lại câu hỏi này ba lần. Nếu có ai nhớ ra mình đã phạm vào các giới này thì phải tự nhận. Nếu không thì tất cả đều yên lặng.

_ Kính bạch chư đại đức, vì các vị đều lặng yên, nên xem như trong chúng tăng đây hết thảy đều thanh tịnh. Việc này xin được hiểu như vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22537)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16146)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15104)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 19131)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14548)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18725)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14519)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13705)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13661)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11930)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13353)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13743)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 14047)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13340)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15140)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16257)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11171)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16539)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 12029)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17704)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12957)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13784)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12950)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14951)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16507)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13245)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12202)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12885)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 13027)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12878)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14319)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14223)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16636)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12485)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14505)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11442)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11144)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13295)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 14002)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13289)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13111)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13614)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12847)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10341)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 14088)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10299)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13795)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16365)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 12081)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 13070)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11741)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12760)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10912)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11082)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 11028)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11979)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12891)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11174)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12701)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11443)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant