Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

A. Nghi thức ở chúng Tỳ-kheo ni

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 12678)
A. Nghi thức ở chúng Tỳ-kheo ni

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

TỲ-KHEO VÀ TỲ-KHEO NI

A. NGHI THỨC Ở CHÚNG TỲ-KHEO NI

Người muốn xin thọ giới tỳ-kheo ni, khi mới đến phải cúi đầu lễ lạy hết thảy đại chúng ni tăng. Lễ chúng ni tăng xong rồi, vị ni giới sư sẽ dạy đắp y, mang bình bát, hỏi người ấy rằng:

Năm tấm y và bình bát này có phải là của cô không?

Người xin thọ giới đáp: “Thưa phải.”

Khi ấy, ni giới sư dạy cho người xin thọ giới thưa trước đại chúng rằng:

“Con tên là... ... với năm tấm y và bình bát này xin nguyện suốt đời thọ trì không lìa bỏ.”

Lập lại như vậy ba lần. Rồi mới thưa thỉnh hòa thượng ni rằng:

“Kính bạch đại đức thương tưởng, con tên là ... ... nguyện thỉnh ngài làm hòa thượng ni, xin ngài vì con mà làm hòa thượng ni. Con nương theo ngài mà được chúng tăng cho thọ giới cụ túc. Xin ngài thương xót con.”

Lập lại như vậy ba lần. Khi ấy, vị ni giới sư mới hỏi hòa thượng ni ấy rằng:

“Ngài có thể vì đệ tử thức-xoa-ma-na đây mà làm hòa thượng ni đỡ đầu được chăng?”

Vị hòa thượng ni đáp rằng: “Có thể được.”

Liền đó, ni giới sư bảo người xin thọ giới đi ra một nơi khác, có thể nhìn thấy nhưng không thể nghe được mọi việc trong giới đàn.

Sau đó, vị ni giới sư mới hỏi cả đại chúng rằng:

“Các vị, ai có thể vì đệ tử thức-xoa-ma-na tên ... ... này mà làm giáo thọ sư?”

Vị tỳ-kheo ni nào nhận làm giáo thọ sư sẽ đáp lại rằng: “Tôi có thể làm được.”

Khi ấy, ni giới sư thưa trước đại chúng rằng:

“Kính bạch chư đại đức ni tăng, thức-xoa-ma-na đây tên là ... ....., nay cầu được hòa thượng ni tên là... ..., xin được thọ cụ túc giới. Nay có tỳ-kheo ni tên là... ... nhận làm giáo thọ sư, vì đệ tử tên ... ... mà dạy dỗ. Nếu chư đại đức ni tăng thấy đây là lúc thích hợpưng thuận, tỳ-kheo ni tên ... ... sẽ vì đệ tử tên ... ... này mà làm giáo thọ sư, lo việc dạy dỗ.”

Rồi lại thưa tiếp rằng:

“Kính bạch chư đại đức ni tăng, thức-xoa-ma-na tên ... ... đây, theo hòa thượng ni tên... ... cầu thọ cụ túc giới, đã có tỳ-kheo ni tên ... ... nhận làm giáo thọ sư để dạy dỗ. Như có ai trong số chư đại đức ni tăng ưng thuận việc này, xin lặng thinh chấp nhận. Vị nào không ưng thuận xin tùy ý nói ra.”

Nếu đại chúng ni đều lặng thinh tỏ ý đã ưng thuận, xem như đã lập xong giáo thọ sư cho người xin thọ giới.

Tiếp theo, vị ni sư giáo thọ đi đến chỗ người xin thọ giới đã lánh ra lúc nãy, dạy sửa sang y phục cho tề chỉnh, quỳ gối chân phải xuống, chắp hai tay cung kính. Ni sư giáo thọ dạy rằng:

“Cô nên nghe cho rõ đây. Giờ là lúc phải chí thành, lúc phải nói lên sự thật. Nay ta hỏi cô, điều nào đúng thật, phải thưa là đúng thật, như có gì không thật, phải thưa là không thật.”

Rồi vị ni sư giáo thọ hỏi người xin thọ giới rằng:

“Cô có thật là người nữ bình thường, không có dị tật, khiếm khuyết gì hay không? Cô có mắc các chứng bệnh lâu năm hoặc mất khả năng sanh sản không? Cô có vi phạm vào pháp luật không?

“Cha mẹ cô còn sống không? Cô có chồng hay chưa?”

Nếu đáp là cha mẹ còn sống hoặc đã có chồng, lại hỏi xem cha mẹ hoặc chồng có đồng ý cho xuất gia hay không?

Ni giáo sư lại hỏi tiếp rằng:

“Cô có đủ năm tấm y và bình bát để khất thực hay không? Cô tên là gì? Hòa thượng ni đỡ đầu tên là gì?”

Người xin thọ giới phải theo từng câu hỏi mà trả lời thông suốt.

Ni sư giáo thọ hỏi xong, liền trở lại thưa trước đại chúng rằng:

“Kính bạch chư đại đức ni tăng. Đệ tử thức-xoa-ma-na tên ... ... đây, tôi đã xét hỏi xong, không có các sự ngăn ngại việc xuất gia.”

Ni sư yết-ma khi đó liền nói: “Nếu xét thấy là trong sạch, có thể cho vào đây được.”

Rồi người xin thọ giới thỉnh hòa thượng ni yết-ma, thưa trước đại chúng rằng:

“Kính bạch chư đại đức ni tăng. Đệ tử tên là ... ... theo hòa thượng ni ... ... cầu thọ cụ túc giới. Nay đệ tử xin chư đại đức ni tăng thuận cho hòa thượng ni ... ... làm hòa thượng ni yết-ma của đệ tử. Xin chúng ni tăng và hòa thượng ni... ... mở lòng thương xót ưng thuận cho.”

Thưa thỉnh như vậy ba lần. Ni sư yết-ma liền thưa trước đại chúng rằng:

“Kính bạch chư đại đức ni tăng. Đệ tử tên ... ... đây theo hòa thượng ni ... ... cầu thọ cụ túc giới. Nay lại xin với chúng ni tăng thỉnh hòa thượng yết-ma. Nếu chúng ni tăng thấy đây là lúc thích hợpưng thuận, tôi xin đối trước chúng tăng xét hỏi về các pháp ngăn ngại việc xuất gia.”

Sau đó, ni sư yết-ma ở giữa đại chúng công khai lập lại những câu hỏi mà ni giáo sư đã hỏi. Người xin thọ giới cũng như sự thậttrả lời.

Hỏi đáp xong, ni sư yết-ma thưa trước đại chúng rằng:

“Chư đại đức ni tăng, còn có điều chi chưa hỏi chăng? Nếu có điều chi chưa hỏi xin cứ hỏi. Nếu không, xin lặng yên.”

Như đại chúng không có ai lên tiếng, ni giới sư liền thưa rằng:

“Kính bạch chư đại đức ni tăng. Thức-xoa-ma-na tên... ... đây, theo hòa thượng ni ... ... cầu thọ cụ túc giới. Nay xin được chúng ni tăng thuận cho làm hòa thượng ni yết-ma. Đệ tử ... ... tự nói là trong sạch, không có điều chi khó khăn ngăn ngại việc xuất gia, tuổi đời đã đủ, y bát đầy đủ, có hòa thượng ni ... ... làm hòa thượng ni đỡ đầu. Nếu chư ni tăng thấy đây là lúc thích hợpưng thuận, xin vì đệ tử ... ... mà nhận cho làm hòa thượng ni yết-ma.”

Sau cùng, ni giới sư thưa trước đại chúng rằng:

“Kính bạch chư đại đức ni tăng. Thức-xoa-ma-na tên ... ... đây, theo hòa thượng ni ... ... xin được thọ giới cụ túc, đã xin với chúng ni tăng xin nhận các vị hòa thượng ni yết-ma, hòa thượng ni đỡ đầu, đệ tử này tự nói rằng trong sạch, không có các việc khó khăn ngăn ngại sự xuất gia, tuổi đời đã đủ, y bát đầy đủ, hòa thượng ni ... ... là hòa thượng ni yết-ma, hòa thượng ni ... ... đỡ đầu. Nếu chúng ni tăng thấy đây là lúc thích hợpưng thuận, xin lặng yên chấp nhận. Nếu có ai không ưng thuận xin tùy tiện nói ra.”

Nếu trong chúng ni tăng không có ai phản đối, nghi thứcgiáo hội tỳ-kheo ni đến đây xem như hoàn tất.

Nghi thức này được thực hiện ở tại chùa của chư ni, nhưng việc thọ cụ túc giới còn phải qua giáo hội tỳ-kheo nữa. Ngay trong ngày, người xin thọ giới phải đến chỗ của chư tăngthọ cụ túc giới.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25953)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 17937)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 16739)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 22133)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 16040)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 20754)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 16314)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 15489)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 15074)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13483)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14630)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 15138)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 15489)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 14961)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 17081)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 17641)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 12660)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 18195)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 13772)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 19449)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 14410)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 15663)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 14388)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 16181)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 18289)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 14727)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 13855)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 14121)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 14393)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 14344)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 16039)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 15519)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 18180)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 13634)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 16285)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 13163)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 12797)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 15020)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 15805)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 15216)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 14857)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 15097)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 14359)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 11826)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 15707)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 11700)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 15306)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 18116)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 13607)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 14526)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 13167)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 14175)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 12316)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 12587)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 12276)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 13354)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 14355)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 12427)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 14094)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 12943)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant