Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

13. Kiến A-súc Phật phẩm - Đệ thập nhị

03 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7182)
13. Kiến A-súc Phật phẩm - Đệ thập nhị

KINH DUY-MA-CẬT (Hán-Việt)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

DUY-MA-CẬT SỞ THUYẾT KINH

QUYỂN HẠ

Kiến A-súc Phật phẩm - Đệ thập nhị

見阿閦佛品
第 十 二


爾時世尊問維摩詰。汝欲見如來。為以何等觀如來乎。
維摩詰言。如自觀身實相。觀佛亦然。我觀如來。前際不來後際不去今則不住。不觀色不觀色如。不觀色性。不觀受想行識。不觀識如。不觀識性。非四大起。同於 虛空。六入無積。眼耳鼻舌身心已過不在三界。三垢已離。順三脫門。具足三明與無明等。不一相不異相。不自相不他相。非無相非取相。不此岸不彼岸不中流。而 化衆生。觀於寂滅亦不永滅。不此不彼。不以此不以彼。不可以智知。不可以識識。無晦無明無名無相。無彊無弱非淨非穢。不在方不離方。
非有為非無為。無示無說。不施不慳。不戒不犯。不忍不恚。不進不怠。不定不亂。不智不愚。不誠不欺。不來不去。不出不入。一切言語道斷。非福田非不福田。 非應供養非不應供養。非取非捨。非有相非無相。同真際等法性。不可稱不可量。過諸稱量。非大非小。非見非聞非覺非知。離衆結縛。等諸智同衆生。於諸法無分 別。一切無失。無濁無惱。無作無起無生無滅。無畏無憂無喜無厭無著。無已有無當有無今有。不可以一切言說分別顯示。
世尊。如來身為若此。作如是觀。以斯觀者名為正觀。若他觀者名為邪觀。
爾時舍利弗問維摩詰。汝於何沒而來生此。
維摩詰言。汝所得法有沒生乎。
舍利弗言。無沒生也。
若諸法無沒生相。云何問言汝於何沒而來生此。於意云何。譬如幻師幻作男女。寧沒生耶。
舍利弗言。無沒生也。
汝豈不聞佛說諸法如幻相乎。
答曰。如是。
若一切法如幻相者。云何問言。汝於何沒而來生此。
舍利弗。沒者為虛誑法壞敗之相。生者為虛誑法相續之相。菩薩雖沒不盡善本。雖生不長諸惡。
是時佛告舍利弗。有國名妙喜。佛號無動。是維摩詰於彼國沒而來生此。
舍利弗言。未曾有也。
世尊。是人乃能捨清淨土。而來樂此多怒害處。
維摩詰語舍利弗。於意云何。日光出時與冥合乎。
答曰。不也。日光出時即無衆冥。
維摩詰言。夫日何故行閻浮提。
答曰。欲以明照為之除冥。
維摩詰言。菩薩如是。雖生不淨佛土為化衆生不與愚闇而共合也。但滅衆生煩惱闇耳。
是時大衆渴仰。欲見妙喜世界無動如來及其菩薩聲聞之衆。佛知一切衆會所念。告維摩詰言。善男子。為此衆會。現妙喜國無動如來及諸菩薩聲聞之衆。衆皆欲見。
於是維摩詰心念。吾當不起於座接妙喜國。鐵圍山川溪谷江河。大海泉源須彌諸山。及日月星宿。天龍鬼神梵天等宮。并諸菩薩聲聞之衆。城邑聚落男女大小。乃至 無動如來及菩提樹諸妙蓮華。能於十方作佛事者。三道寶階從閻浮提至忉利天以此寶階諸天來下。悉為禮敬無動如來聽受經法。閻浮提人。亦登其階。上昇忉利見彼 諸天。妙喜世界成就如是無量功德。
上至阿迦膩吒天。下至水際。以右手斷取如陶家輪。入此世界猶得華鬘示一切衆。
作是念已入於三昧現神通力。以其右手斷取妙喜世界置於此土。彼得神通菩薩及聲聞衆并餘天人。俱發聲言。唯然世尊。誰取我去。願見救護。
無動佛言。非我所為。是維摩詰神力所作。
其餘未得神通者。不覺不知己之所往。妙喜世界雖入此土而不增減。於是世界亦不迫隘如本無異。
爾時釋迦牟尼佛告諸大衆。汝等且觀妙喜世界無動如來其國嚴飾菩薩行淨弟子清白。
皆曰。唯然已見。
佛言。若菩薩欲得如是清淨佛土。當學無動如來所行之道。
現此妙喜國時。娑婆世界十四那由他人發阿耨多羅三藐三菩提心。皆願生於妙喜佛土。
釋迦牟尼佛即記之曰。當生彼國。
時妙喜世界於此國土所應饒益。其事訖已還復本處舉衆皆見。
佛告舍利弗。汝見此妙喜世界及無動佛不。
唯然已見。
世尊。願使一切衆生得清淨土如無動佛。獲神通力如維摩詰。
世尊。我等快得善利。得見是人親近供養。其諸衆生若今現在若佛滅後。聞此經者亦得善利。況復聞已信解受持讀誦解說如法修行。若有手得是經典者。便為已得法 寶之藏。若有讀誦解釋其義如說修行。即為諸佛之所護念。其有供養如是人者。當知則為供養於佛。其有書持此經卷者。當知其室即有如來。若聞是經能隨喜者。斯 人則為趣一切智。若能信解此經乃至一四句偈為他說者。當知此人即是受阿耨多羅三藐三菩提記。

Kiến A-súc Phật Phẩm
Đệ thập nhị

Nhĩ thời, Thế Tôn vấn Duy-ma-cật: Nhữ dục kiến Như Lai, vi dĩ hà đẳng quán Như Lai hồ?
Duy-ma-cật ngôn: Như tự quán thân thật tướng, quán Phật diệc nhiên. Ngã quán Như Lai, tiền tế bất lai, hậu tế bất khứ, kim tắc bất trụ. Bất quán sắc, bất quán sắc như, bất quán sắc tánh. Bất quán thọ, tưởng, hành, thức. Bất quán thức như, bất quán thức tánh. Phi tứ đại khởi, đồng ư hư không. Lục nhập vô tích, nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, tâm dĩ quá, bất tại Tam giới. Tam cấu dĩ ly. Thuận tam thoát môn. Cụ túc tam minh, dữ vô minh đẳng. Bất nhất tướng, bất dị tướng. Bất tự tướng, bất tha tướng. Phi vô tướng, phi thủ tướng. Bất thử ngạn, bất bỉ ngạn, bất trung lưu, nhi hóa chúng sinh. Quán ư tịch diệt, diệc bất vĩnh diệt. Bất thử, bất bỉ. Bất dĩ thử, bất dĩ bỉ. Bất khả dĩ trí tri, bất khả dĩ thức thức. Vô hối, vô minh. Vô danh, vô tướng. Vô cương, vô nhược. Phi tịnh, phi uế. Bất tại phương, bất ly phương.
Phi hữu vi, phi vô vi. Vô thị, vô thuyết. Bất thí, bất khan. Bất giới, bất phạm. Bất nhẫn, bất nhuế. Bất tấn, bất đãi. Bất định, bất loạn. Bất trí, bất ngu. Bất thành, bất khi. Bất lai, bất khứ. Bất xuất, bất nhập. Nhất thiết ngôn ngữ đạo đoạn. Phi phước điền, phi bất phước điền. Phi ứng cúng dường, phi bất ứng cúng dường. Phi thủ, phi xả. Phi hữu tướng, phi vô tướng. Đồng chân tế, đẳng pháp tánh. Bất khả xứng, bất khả lượng, quá chư xứng lượng. Phi đại, phi tiểu. Phi kiến, phi văn, phi giác, phi tri. Ly chúng kết phược. Đẳng chư trí, đồng chúng sinh. Ư chư pháp, vô phân biệt, nhất thiết vô thất. Vô trược, vô não. Vô tác, vô khởi. Vô sinh, vô diệt. Vô úy, vô ưu. Vô hỷ, vô yếm, vô trước. Vô dĩ hữu, vô đương hữu, vô kim hữu. Bất khả dĩ nhất thiết ngôn thuyết phân biệt hiển thị.
Thế Tôn! Như Lai thân vi nhược thử tác như thị quán, dĩ tư quán giả, danh vi chánh quán. Nhược tha quán giả, danh vi tà quán.
Nhĩ thời, Xá-lỵ-phất vấn Duy-ma-cật: Nhữ ư hà một nhi lai sinh thử?
Duy-ma-cật ngôn: Nhữ sở đắc pháp, hữu một sinh hồ?
Xá-lỵ-phất ngôn: Vô một sinh dã.
Nhược chư pháp vô một sinh tướng, vân hà vấn ngôn: Nhữ ư hà một nhi lai sinh thử? Ư ý vân hà? Thí như ảo sư ảo tác nam nữ. Ninh một sinh da?
Xá-lỵ-phất ngôn: Vô một sinh dã.
Nhữ khởi bất văn Phật thuyết: Chư pháp như ảo tướng hồ?
Đáp viết: Như thị.
Nhược nhất thiết pháp như ảo tướng giả, vân hà vấn ngôn: Nhữ ư hà một nhi lai sinh thử?
Xá-lỵ-phất! Một giả vi hư cuống pháp, hoại bại chi tướng. Sinh giả vi hư cuống pháp, tương tục chi tướng. Bồ Tát tuy một, bất tận thiện bổn, tuy sinh, bất trưởng chư ác.
Thị thời, Phật cáo Xá-lỵ-phất: Hữu quốc danh Diệu Hỷ, Phật hiệu Vô Động. Thị Duy-ma-cật ư bỉ quốc một nhi lai sinh thử.
Xá-lỵ-phất ngôn: Vị tằng hữu dã!
Thế Tôn! Thị nhân nãi năng xả thanh tịnh độ, nhi lai nhạo thử đa nộ hại xứ?
Duy-ma-cật ngứ Xá-lỵ-phất: Ư ý vân hà? Nhật quang xuất thời, dữ minh hiệp hồ?
Đáp viết: Phất dã. Nhật quang xuất thời, tắc vô chúng minh.
Duy-ma-cật ngôn: Phù nhật hà cố hành Diêm-phù-đề?
Đáp viết: Dục dĩ minh chiếu, vị chi trừ minh.
Duy-ma-cật ngôn: Bồ Tát như thị. Tuy sinh bất tịnh Phật độ, vị hóa chúng sinh bất dữ ngu ám nhi cộng hiệp dã. Đản diệt chúng sinh phiền não ám nhĩ.
Thị thời, Đại chúng khát ngưỡng, dục kiến Diệu Hỷ thế giới, Vô Động Như Lai cập kỳ Bồ Tát, Thanh văn chi chúng. Phật tri nhất thiết chúng hội sở niệm, cáo Duy-ma-cật ngôn: Thiện nam tử! Vị thử chúng hội, hiện Diệu Hỷ quốc, Vô Động Như Lai cập chư Bồ Tát, Thanh văn chi chúng. Chúng giai dục kiến.
Ư thị, Duy-ma-cật tâm niệm: Ngô đương bất khởi ư tòa, tiếp Diệu Hỷ quốc, thiết vi, sơn xuyên, khê cốc, giang hà, đại hải, tuyền nguyên, Tu-di chư sơn cập nhật nguyệt, tinh tú, thiên long, quỷ thần, Phạm thiên đẳng cung, tinh chư Bồ Tát, Thanh văn chi chúng, thành ấp tụ lạc, nam nữ đại tiểu, nãi chí Vô Động Như Lai cập Bồ-đề thọ, chư diệu liên hoa, năng ư thập phương tác Phật sự giả, tam đạo bảo giai, tùng Diêm-phù-đề, chí thiên. Dĩ thử bảo giai, chư thiên lai hạ, tất vi lễ kính Vô Động Như Lai, thính thọ kinh pháp. Diêm-phù-đề nhân diệc đăng kỳ giai, thượng thăng Đao-lỵ, kiến bỉ chư thiên, Diệu Hỷ thế giới, thành tựu như thị vô lượng công đức.
Thượng chí A-ca-ni-trá thiên, hạ chí thủy tế, dĩ hữu thủ đoạn thủ, như đào gia luân. Nhập thử thế giới, du đắc hoa man, thị nhất thiết chúng.
Tác thị niệm dĩ, nhập ư Tam-muội, hiện thần thông lực: dĩ kỳ hữu thủ, đoạn thủ Diệu Hỷ thế giới, trí ư thử độ. Bỉ đắc thần thông: Bồ Tát cập Thanh văn chúng, tinh dữ thiên nhân, câu phát thanh ngôn: Duy nhiên, Thế Tôn! Thùy thủ ngã khứ? Nguyện kiến cứu hộ.
Vô Động Phật ngôn: Phi ngã sở vi. Thị Duy-ma-cật thần lực sở tác.
Kỳ dư vị đắc thần thông giả, bất giác bất tri kỷ chi sở vãng. Diệu Hỷ thế giới, tuy nhập thử độ, nhi bất tăng giảm. Ư thị thế giới, diệc bất bách ải, như bổn vô dị.
Nhĩ thời, Thích-ca Mâu-ni Phật cáo chư Đại chúng: Nhữ đẳng thả quan Diệu Hỷ thế giới, Vô Động Như Lai, kỳ quốc nghiêm sức, Bồ Tát hạnh tịnh, đệ tử thanh bạch.
Giai viết: Duy nhiên, dĩ kiến.
Phật ngôn: Nhược Bồ Tát dục đắc như thị thanh tịnh Phật độ, đương học Vô Động Như Lai sở hành chi đạo.
Hiện thử Diệu Hỷ quốc thời, Ta-bà thế giới thập tứ na-do-tha nhân phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm, giai nguyện sinh ư Diệu Hỷ Phật độ.
Thích-ca Mâu-ni Phật tức ký chi viết: Đương sinh bỉ quốc.
Thời, Diệu Hỷ thế giới, ư thử quốc độ sở ứng nhiêu ích. Kỳ sự ngật dĩ, hoàn phục bổn xứ, cử chúng giai kiến.
Phật cáo Xá-lỵ-phất: Nhữ kiến thử Diệu Hỷ thế giới cập Vô Động Phật phủ?
Duy nhiên, dĩ kiến.
Thế Tôn! Nguyện sử nhất thiết chúng sinh đắc thanh tịnh độ như Vô Động Phật, hoạch thần thông lực như Duy-ma-cật.
Thế Tôn! Ngã đẳng khoái đắc thiện lợi: Đắc kiến thị nhân, thân cận cúng dường. Kỳ chư chúng sinh, nhược kim hiện tại, nhược Phật diệt hậu, văn thử kinh giả, diệc đắc thiện lợi. Huống phục văn dĩ, tín giải, thọ trì, độc tụng, giải thuyết, như pháp tu hành? Nhược hữu thủ đắc thị kinh điển giả, tiện vi dĩ đắc pháp bảo chi tạng. Nhược hữu độc tụng, giải thích kỳ nghĩa, như thuyết tu hành, tắc vi chư Phật chi sở hộ niệm. Kỳ hữu cúng dường như thị nhân giả, đương tri tắc vi cúng dường ư Phật. Kỳ hữu thơ trì thử kinh quyển giả, đương tri kỳ thất tức hữu Như Lai. Nhược văn thị kinh, năng tùy hỷ giả, tư nhân tắc vi thú nhất thiết trí. Nhược năng tín giải thử kinh, nãi chí nhất tứ cú kệ, vị tha thuyết giả, đương tri thử nhân tức thị thọ A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề ký.
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29892)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27178)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21767)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22233)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20055)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21948)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24751)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18988)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24761)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30974)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23987)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27764)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26511)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21314)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23224)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38127)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19976)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19045)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23168)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23879)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22802)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22910)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29572)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20641)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18709)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15847)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18857)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19679)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20153)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19954)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18117)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22932)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34166)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16418)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16918)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39245)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26070)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20098)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18851)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24060)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29140)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22902)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30959)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21008)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26851)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20678)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26266)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23324)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19818)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24675)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30037)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20221)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20404)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15829)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23898)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant