Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Văn-thù-sư-lợi vấn tật phẩm - Đệ ngũ

03 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7587)
6. Văn-thù-sư-lợi vấn tật phẩm - Đệ ngũ

KINH DUY-MA-CẬT (Hán-Việt)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

DUY-MA-CẬT SỞ THUYẾT KINH

QUYỂN TRUNG
Văn-thù-sư-lợi vấn tật phẩm - Đệ ngũ

 

文殊師利問疾品
第 五

爾時佛告文殊師利。汝行詣維摩詰問疾。

文殊師利白佛言。世尊。彼上人者難為詶對。深達實相善說法要。辯才無滯智慧無礙。一切菩薩法式悉知。諸佛祕藏無不得入降伏衆魔遊戲神通。其慧方便皆已得度。雖然當承佛聖旨詣彼問疾。

於是衆中諸菩薩大弟子釋梵四天王等咸作是念。今二大士文殊師利維摩詰共談。必說妙法。

即時八千菩薩五百聲聞。百千天人皆欲隨從。

於是文殊師利與諸菩薩大弟子衆及諸天人恭敬圍繞入毘耶離大城。

爾時長者維摩詰心念。今文殊師利與大衆俱來。即以神力空其室內。除去所有及諸侍者。唯置一牀以疾而臥。

文殊師利既入其舍。見其室空無諸所有獨寢一牀。

時維摩詰言。善來文殊師利。不來相而來。不見相而見。

文殊師利言。如是居士。若來已更不來。若去已更不去。所以者何。來者無所從來。去者無所至。所可見者更不可見。

且置是事。居士是疾寧可忍不。療治有損不至增乎。世尊慇懃致問無量。

居士。是疾何所因起。其生久如。當云何滅。

維摩詰言。從癡有愛則我病生。以一切衆生病是故我病。若一切衆生得不病者則我病滅。所以者何。菩薩為衆生故入生死。有生死則有病。若衆生得離病者。則菩薩 無復病。譬如長者唯有一子其子得病父母亦病。若子病愈父母亦愈。菩薩如是。於諸衆生愛之若子。衆生病則菩薩病。衆生病愈菩薩亦愈。

又言。是疾何所因起。菩薩疾者以大悲起。

文殊師利言。居士。此室何以空無侍者。

維摩詰言。諸佛國土亦復皆空。

又問。以何為空。

答曰。以空空。

又問。空何用空。

答曰。以無分別空故空。

又問。空可分別耶。

答曰。分別亦空。

又問。空當於何求。

答曰。當於六十二見中求。

又問。六十二見當於何求。

答曰。當於諸佛解脫中求。

又問。諸佛解脫當於何求。

答曰。當於一切衆生心行中求。

又仁所問何無侍者。一切衆魔及諸外道皆吾侍者。所以者何。衆魔者樂生死。菩薩於生死而不捨。外道者樂諸見。菩薩於諸見而不動。

文殊師利言。居士所疾。為何等相。

維摩詰言。我病無形不可見。

又問。此病身合耶心合耶。

答曰。非身合。身相離故。亦非心合。心如幻故。

又問。地大水大火大風大。於此四大何大之病。

答曰。是病非地大亦不離地大。水火風大亦復如是。而衆生病從四大起。以其有病是故我病。

爾時文殊師利問維摩詰言。菩薩應云何慰喻有疾菩薩。

維摩詰言。說身無常不說厭離於身。說身有苦不說樂於涅槃。說身無我而說教導衆生。說身空寂不說畢竟寂滅。說悔先罪而不說入於過去。以己之疾愍於彼疾。當識 宿世無數劫苦。當念饒益一切衆生憶所修福。念於淨命。勿生憂惱常起精進。當作醫王療治衆病。菩薩應如是慰喻有疾菩薩令其歡喜。

文殊師利言。居士。有疾菩薩云何調伏其心。

維摩詰言。有疾菩薩應作是念。今我此病皆從前世妄想顛倒諸煩惱生。無有實法誰受病者。所以者何。四大合故假名為身。四大無主身亦無我。

又此病起皆由著我。是故於我不應生著。既知病本即除我想及衆生想。當起法想。應作是念。但以衆法合成此身。起唯法起滅唯法滅。

又此法者各不相知。起時不言我起。滅時不言我滅。彼有疾菩薩為滅法想當作是念。此法想者亦是顛倒。顛倒者是即大患。我應離之。

云何為離。離我我所。云何離我我所。謂離二法。云何離二法。謂不念內外諸法行於平等。云何平等。為我等涅槃等。所以者何。我及涅槃此二皆空。以何為空。但 以名字故空。如此二法無決定性。得是平等無有餘病。唯有空病。空病亦空。是有疾菩薩以無所受而受諸受。未具佛法亦不滅受而取證也。

設身有苦念惡趣衆生起大悲心。我既調伏亦當調伏一切衆生。但除其病而不除法。為斷病本而教導之。

何謂病本。謂有攀緣。從有攀緣則為病本。何所攀緣謂之三界。云何斷攀緣以無所得。若無所得則無攀緣。何謂無所得。謂離二見。何謂二見。謂內見外見。是無所得。

文殊師利。是為有疾菩薩調伏其心。為斷老病死苦是菩薩菩提。若不如是己所修治為無慧利。譬如勝怨乃可為勇。如是兼除老病死者菩薩之謂也。

彼有疾菩薩應復作是念。如我此病非真非有。衆生病亦非真非有。作是觀時。於諸衆生若起愛見大悲即應捨離。所以者何。菩薩斷除客塵煩惱而起大悲。愛見悲者則 於生死有疲厭心。若能離此無有疲厭。在在所生不為愛見之所覆也。所生無縛能為衆生說法解縛。如佛所說。若自有縛能解彼縛無有是處。若自無縛。能解彼縛斯有 是處。是故菩薩不應起縛。

何謂縛。何謂解。貪著禪味是菩薩縛。以方便生是菩薩解。

又無方便慧縛。有方便慧解。無慧方便縛。有慧方便解。

何謂無方便慧縛。謂菩薩以愛見心。莊嚴佛土成就衆生。於空無相無作法中而自調伏。是名無方便慧縛。何謂有方便慧解。謂不以愛見心莊嚴佛土成就衆生。於空無相無作法中。以自調伏而不疲厭。是名有方便慧解。

何謂無慧方便縛。謂菩薩住貪欲瞋恚邪見等諸煩惱。而植衆德本。是名無慧方便縛。何謂有慧方便解。謂離諸貪欲瞋恚邪見等諸煩惱。而植衆德本。迴向阿耨多羅三藐三菩提。是名有慧方便解。

文殊師利。彼有疾菩薩應如是觀諸法。

又復觀身無常苦空非我。是名為慧。雖身有疾常在生死。饒益一切而不厭倦。是名方便。

又復觀身。身不離病病不離身。是病是身非新非故。是名為慧。設身有疾而不永滅。是名方便。

文殊師利。有疾菩薩應如是調伏其心不住其中。亦復不住不調伏心。所以者何。若住不調伏心是愚人法。若住調伏心是聲聞法。是故菩薩不當住於調伏不調伏心。離此二法是菩薩行。

在於生死不為污行。住於涅槃不永滅度。是菩薩行。

非凡夫行非賢聖行。是菩薩行。

非垢行非淨行。是菩薩行。雖過魔行。而現降伏衆魔。是菩薩行。

求一切智無非時求。是菩薩行。

雖觀諸法不生而不入正位。是菩薩行。

雖觀十二緣起而入諸邪見。是菩薩行。

雖攝一切衆生而不愛著。是菩薩行。

雖樂遠離而不依身心盡。是菩薩行。

雖行三界而不壞法性。是菩薩行。

雖行於空而植衆德本。是菩薩行。

雖行無相而度衆生。是菩薩行。

雖行無作而現受身。是菩薩行。

雖行無起而起一切善行。是菩薩行。

雖行六波羅密而遍知衆生心心數法。是菩薩行。

雖行六通而不盡漏。是菩薩行。

雖行四無量心而不貪著生於梵世。是菩薩行。

雖行禪定解脫三昧而不隨禪生。是菩薩行。

雖行四念處不畢竟永離身受心法。是菩薩行。

雖行四正勤而不捨身心精進。是菩薩行。

雖行四如意足而得自在神通。是菩薩行。

雖行五根而分別衆生諸根利鈍。是菩薩行。

雖行五力而樂求佛十力。是菩薩行。

雖行七覺分而分別佛之智慧。是菩薩行。

雖行八正道而樂行無量佛道。是菩薩行。

雖行止觀助道之法而不畢竟墮於寂滅。是菩薩行。

雖行諸法不生不滅而以相好莊嚴其身。是菩薩行。

雖現聲聞辟支佛威儀而不捨佛法。是菩薩行。

雖隨諸法究竟淨相而隨所應為現其身。是菩薩行。

雖觀諸佛國土永寂如空而現種種清淨佛土。是菩薩行。

雖得佛道轉於法輪入於涅槃而不捨於菩薩之道。是菩薩行。

說是語時文殊師利所將大衆。其中八千天子皆發阿耨多羅三藐三菩提心。


Văn-thù-sư-lợi Vấn Tật Phẩm
Đệ ngũ

Nhĩ thời, Phật cáo : Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.

Văn-thù-sư-lợi bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Bỉ thượng nhân giả, nan vi thù đối. Thâm đạt thật tướng, thiện thuyết pháp yếu, biện tài vô trệ, trí huệ vô ngại. Nhất thiết Bồ Tát pháp thức tất tri. Chư Phật bí tạng, vô bất đắc nhập. Hàng phục chúng ma, du hý thần thông. Kỳ huệ phương tiện giai dĩ đắc độ. Tuy nhiên, đương thừa Phật thánh chỉ, nghệ bỉ vấn tật.

Ư thị chúng trung, chư Bồ Tát, đại đệ tử, Thích, Phạm, Tứ thiên vương đẳng, hàm tác thị niệm: Kim nhị đại sĩ: Văn-thù-sư-lợi, Duy-ma-cật cộng đàm, tất thuyết diệu pháp.

Tức thời, bát thiên Bồ Tát, ngũ bá Thanh văn, bá thiên thiên nhân, giai dục tùy tùng.

Ư thị, Văn-thù-sư-lợi dữ chư Bồ Tát, đại đệ tử chúng, cập chư thiên nhân cung kính vi nhiễu, nhập Tỳ-da-ly đại thành.

Nhĩ thời, Trưởng giả Duy-ma-cật tâm niệm: Kim Văn-thù-sư-lợi dữ đại chúng câu lai. Tức dĩ thần lực, không kỳ thất nội, trừ khử sở hữu cập chư thị giả. Duy trí nhất sàng, dĩ tật nhi ngọa.

Văn-thù-sư-lợi ký nhập kỳ xá, kiến kỳ thất không, vô chư sở hữu, độc tẩm nhất sàng.

Thời, Duy-ma-cật ngôn: Thiện lai, Văn-thù-sư-lợi! Bất lai tướng nhi lai, bất kiến tướng nhi kiến.

Văn-thù-sư-lợi ngôn: Như thị, cư sĩ. Nhược lai dĩ, cánh bất lai. Nhược khứ dĩ, cánh bất khứ. Sở dĩ giả hà? Lai giả, vô sở tùng lai. Khứ giả, vô sở chí. Sở khả kiến giả, cánh bất khả kiến.

Thả trí thị sự, cư sĩ thị tật ninh khả nhẫn phủ? Liệu trị hữu tổn, bất chí tăng hồ? Thế Tôn ân cần, trí vấn vô lượng.

Cư sĩ, thị tật hà sở nhân khởi? Kỳ sinh cửu như, đương vân hà diệt?

Duy-ma-cật ngôn: Tùng si hữu ái, tắc ngã bệnh sinh. Dĩ nhất thiết chúng sinh bệnh, thị cố ngã bệnh. Nhược nhất thiết chúng sinh đắc bất bệnh giả, tắc ngã bệnh diệt. Sở dĩ giả hà? Bồ Tát vị chúng sinh cố nhập sinh tử. Hữu sinh tử, tắc hữu bệnh. Nhược chúng sinh đắc ly bệnh giả, tắc Bồ Tát vô phục bệnh. Thí như trưởng giả, duy hữu nhất tử. Kỳ tử đắc bệnh, phụ mẫu diệc bệnh. Nhược tử bệnh dũ, phụ mẫu diệc dũ. Bồ Tát như thị. Ư chư chúng sinh, ái chi nhược tử. Chúng sinh bệnh, tắc Bồ Tát bệnh. Chúng sinh bệnh dũ, Bồ Tát diệc dũ.

Hựu ngôn: Thị tật hà sở nhân khởi? Bồ Tát tật giả, dĩ đại bi khởi.

Văn-thù-sư-lợi ngôn: Cư sĩ, thử thất hà dĩ không, vô thị giả?

Duy-ma-cật ngôn: Chư Phật quốc độ diệc phục giai không.

Hựu vấn: Dĩ hà vi không?

Đáp viết: Dĩ không không.

Hựu vấn: Không hà dụng không?

Đáp viết: Dĩ vô phân biệt không, cố không.

Hựu vấn: Không, khả phân biệt da?

Đáp viết: Phân biệt diệc không.

Hựu vấn: Không, đương ư hà cầu?

Đáp viết: Đương ư lục thập nhị kiến trung cầu.

Hựu vấn: Lục thập nhị kiến đương ư hà cầu?

Đáp viết: Đương ư chư Phật giải thoát trung cầu.

Hựu vấn: Chư Phật giải thoát đương ư hà cầu?

Đáp viết: Đương ư nhất thiết chúng sinh tâm hạnh trung cầu.

Hựu nhân sở vấn: Hà vô thị giả? Nhất thiết chúng ma cập chư ngoại đạo giai ngô thị giả. Sở dĩ giả hà? Chúng ma giả nhạo sinh tử. Bồ Tát ư sinh tử nhi bất xả. Ngoại đạo giả nhạo chư kiến. Bồ Tát ư chư kiến nhi bất động.

Văn-thù-sư-lợi ngôn: Cư sĩ sở tật, vi hà đẳng tướng?

Duy-ma-cật ngôn: Ngã bệnh vô hình, bất khả kiến.

Hựu vấn: Thử bệnh thân hiệp da? Tâm hiệp da?

Đáp viết: Phi thân hiệp, thân tướng ly cố. Diệc phi tâm hiệp, tâm như ảo cố.

Hựu vấn: Địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, ư thử tứ đại, hà đại chi bệnh?

Đáp viết: Thị bệnh phi địa đại, diệc bất ly địa đại. Thủy, hỏa, phong đại, diệc phục như thị. Nhi chúng sinh bệnh tùng tứ đại khởi. Dĩ kỳ hữu bệnh, thị cố ngã bệnh.

Nhĩ thời, Văn-thù-sư-lợi vấn Duy-ma-cật ngôn: Bồ Tát ưng vân hà ủy dụ hữu tật Bồ Tát?

Duy-ma-cật ngôn: Thuyết thân vô thường, bất thuyết yếm ly ư thân. Thuyết thân hữu khổ, bất thuyết nhạo ư Niết-bàn. Thuyết thân vô ngã, nhi thuyết giáo đạo chúng sinh. Thuyết thân không tịch, bất thuyết tất cánh tịch diệt. Thuyết hối tiên tội, nhi bất thuyết nhập ư quá khứ. Dĩ kỷ chi tật, mẫn ư bỉ tật. Đương chí túc thế vô số kiếp khổ. Đương niệm nhiêu ích nhất thiết chúng sinh, ức sở tu phước. Niệm ư tịnh mạng. Vật sinh ưu não, thường khởi tinh tấn. Đương tác Y vương, liệu trị chúng bệnh. Bồ Tát ưng như thị ủy dụ hữu tật Bồ Tát, linh kỳ hoan hỷ.

Văn-thù-sư-lợi ngôn: Cư sĩ, hữu tật Bồ Tát vân hà điều phục kỳ tâm?

Duy-ma-cật ngôn: Hữu tật Bồ Tát ưng tác thị niệm: Kim ngã thử bệnh, giai tùng tiền thế vọng tưởng điên đảo chư phiền não sinh. Vô hữu thật pháp, tùy thọ bệnh giả. Sở dĩ giả hà? Tứ đại hiệp cố, giả danh vi thân. Tứ đại vô chủ, thân diệc vô ngã.

Hựu thử bệnh khởi, giai do trước ngã. Thị cố ư ngã, bất ưng sinh trước. Ký tri bệnh bổn, tức trừ ngã tưởng cập chúng sinh tưởng. Đương khởi pháp tưởng. Ưng tác thị niệm: Đản dĩ chúng pháp hiệp thành thử thân. Khởi duy pháp khởi, diệt duy pháp diệt.

Hựu thử pháp giả, các bất tương tri. Khởi thời, bất ngôn ngã khởi. Diệt thời, bất ngôn ngã diệt. Bỉ hữu tật Bồ Tát, vị diệt pháp tưởng, đương tác thị niệm: Thử pháp tưởng giả, diệc thị điên đảo. Điên đảo giả, tức thị đại hoạn. Ngã ưng ly chi.

Vân hà vi ly? Ly ngã, ngã sở. Vân hà ly ngã, ngã sở? Vị ly nhị pháp. Vân hà ly nhị pháp? Vị bất niệm nội ngoại chư pháp, hành ư bình đẳng. Vân hà bình đẳng? Vị ngã đẳng, Niết-bàn đẳng. Sở dĩ giả hà? Ngã cập Niết-bàn, thử nhị giai không. Dĩ hà vi không? Đản dĩ danh tự cố không. Như thử nhị pháp, vô quyết định tánh. Đắc thị bình đẳng, vô hữu dư bệnh. Duy hữu không bệnh. Không bệnh diệc không. Thị hữu tật Bồ Tát, dĩ vô sở thọ, nhi thọ chư thọ. Vị cụ Phật pháp, diệc bất diệt thọ nhi thủ chứng dã.

Thiết thân hữu khổ, niệm ác thú chúng sinh, khởi đại bi tâm. Ngã ký điều phục, diệc đương điều phục nhất thiết chúng sinh. Đản trừ kỳ bệnh, nhi bất trừ pháp. Vị đoạn bệnh bổn, nhi giáo đạo chi.

Hà vị bệnh bổn? Vị hữu phan duyên. Tùng hữu phan duyên tắc vi bệnh bổn. Hà sở phan duyên? Vị chi Tam giới. Vân hà đoạn phan duyên? Dĩ vô sở đắc. Nhược vô sở đắc, tắc vô phan duyên. Hà vị vô sở đắc? Vị ly nhị kiến. Hà vị nhị kiến? Vị nội kiến, ngoại kiến. Thị vô sở đắc.

Văn-thù-sư-lợi! Thị vi hữu tật Bồ Tát điều phục kỳ tâm. Vị đoạn lão bệnh tử khổ, thị Bồ Tát Bồ-đề. Nhược bất như thị, kỷ sở tu trị, vi vô huệ lợi. Thí như thắng oán, nãi khả vi dũng. Như thị kiêm trừ lão bệnh tử giả, Bồ Tát chi vị dã.

Bỉ hữu tật Bồ Tát, ưng phục tác thị niệm: Như ngã thử bệnh, phi chân phi hữu. Chúng sinh bệnh diệc phi chân phi hữu. Tác thị quán thời, ư chư chúng sinh, nhược khởi ái kiến đại bi, tức ưng xả ly. Sở dĩ giả hà? Bồ Tát đoạn trừ khách trần phiền não, nhi khởi đại bi. Ái kiến bi giả, tắc ư sinh tử, hữu bì yếm tâm. Nhược năng ly thử, vô hữu bì yếm. Tại tại sở sinh, bất vi ái kiến chi sở phú dã. Sở sinh vô phược, năng vị chúng sinh thuyết pháp giải phược. Như Phật sở thuyết: Nhược tự hữu phược năng giải bỉ phược, vô hữu thị xứ. Nhược tự vô phược, năng giải bỉ phược, tư hữu thị xứ. Thị cố Bồ Tát bất ưng khởi phược.

Hà vị phược? Hà vị giải? Tham trước thiền vị, thị Bồ Tát phược. Dĩ phương tiện sinh, thị Bồ Tát giải.

Hựu vô phương tiện huệ phược, hữu phương tiện huệ giải, vô huệ phương tiện phược, hữu huệ phương tiện giải.

Hà vị vô phương tiện huệ phược? Vị Bồ Tátái kiến tâm, trang nghiêm Phật độ, thành tựu chúng sinh. Ư không, vô tướng, vô tác pháp trung, nhi tự điều phục. Thị danh vô phương tiện huệ phược. Hà vị hữu phương tiện huệ giải? Vị bất dĩ ái kiến tâm, trang nghiêm Phật độ, thành tựu chúng sinh. Ư không, vô tướng, vô tác pháp trung, dĩ tự điều phục, nhi bất bì yếm. Thị danh hữu phương tiện huệ giải.

Hà vị vô huệ phương tiện phược? Vị Bồ Tát trụ tham dục, sân nhuế, tà kiến đẳng chư phiền não, nhi thực chúng đức bổn. Thị danh vô huệ phương tiện phược. Hà vị hữu huệ phương tiện giải? Vị ly chư tham dục, sân nhuế, tà kiến đẳng chư phiền não, nhi thực chúng đức bổn, hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Thị danh hữu huệ phương tiện giải.

Văn-thù-sư-lợi! Bỉ hữu tật Bồ Tát, ưng như thị quán chư pháp.

Hựu phục quán thân vô thường, khổ, không, phi ngã. Thị danh vi huệ. Tuy thân hữu tật, thường tại sinh tử, nhiêu ích nhất thiết, nhi bất yếm quyện. Thị danh phương tiện.

Hựu phục quán thân: thân bất ly bệnh, bệnh bất ly thân. Thị bệnh thị thân, phi tân phi cố. Thị danh vi huệ. Thiết thân hữu tật, nhi bất vĩnh diệt. Thị danh phương tiện.

Văn-thù-sư-lợi! Hữu tật Bồ Tát, ưng như thị điều phục kỳ tâm, bất trụ kỳ trung. Diệc phục bất trụ bất điều phục tâm. Sở dĩ giả hà? Nhược trụ bất điều phục tâm, thị ngu nhân pháp. Nhược trụ điều phục tâm, thị Thanh văn pháp. Thị cố Bồ Tát bất đương trụ ư điều phục, bất điều phục tâm. Ly thử nhị pháp, thị Bồ Tát hạnh.

Tại ư sinh tử, bất vi ô hạnh, trụ ư Niết-bàn, bất vĩnh diệt độ. Thị Bồ Tát hạnh.

Phi phàm phu hạnh, phi hiền thánh hạnh. Thị Bồ Tát hạnh.

Phi cấu hạnh, phi tịnh hạnh. Thị Bồ Tát hạnh. Tuy quá ma hạnh, nhi hiện hàng phục chúng ma. Thị Bồ Tát hạnh.

Cầu nhất thiết trí, vô phi thời cầu. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy quán chư pháp bất sinh, nhi bất nhập chánh vị. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy quán thập nhị duyên khởi, nhi nhập chư tà kiến. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy nhiếp nhất thiết chúng sinh, nhi bất ái trước. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy nhạo viễn ly, nhi bất y thân tâm tận. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy hành tam giới, nhi bất hoại pháp tánh. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy hành ư không, nhi thực chúng đức bổn. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy hành vô tướng, nhi độ chúng sinh. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy hành vô tác, nhi hiện thọ thân. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy hành vô khởi, nhi khởi nhất thiết thiện hạnh. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy hành Lục ba-la-mật, nhi biến tri chúng sinh tâm, tâm số pháp. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy hành lục thông, nhi bất tận lậu. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy hành tứ vô lượng tâm, nhi bất tham trước sinh ư Phạm thế. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy hành thiền định giải thoát Tam-muội, nhi bất tùy thiền sinh. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy hành tứ niệm xứ, bất tất cánh vĩnh ly thân, thọ, tâm, pháp. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy hành tứ chánh cần, nhi bất xả thân, tâm tinh tấn. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy hành tứ như ý túc, nhi đắc tự tại thần thông. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy hành ngũ căn, nhi phân biệt chúng sinh chư căn lợi độn. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy hành ngũ lực, nhi lạc cầu Phật Thập lực. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy hành thất giác phần, nhi phân biệt Phật chi trí huệ. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy hành bát chánh đạo, nhi lạc hành vô lượng Phật đạo. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy hành chỉ quán trợ đạo chi pháp, nhi bất tất cánh đọa ư tịch diệt. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy hành chư Pháp bất sinh bất diệt, nhi dĩ tướng hảo trang nghiêm kỳ thân. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy hiện Thanh văn, Bích chi Phật oai nghi, nhi bất xả Phật Pháp. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy tùy chư pháp cứu cánh tịnh tướng, nhi tùy sở ưng vi hiện kỳ thân. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy quán chư Phật quốc độ vĩnh tịch như không, nhi hiện chủng chủng thanh tịnh Phật độ. Thị Bồ Tát hạnh.

Tuy đắc Phật đạo, chuyển ư Pháp luân, nhập ư Niết-bàn, nhi bất xả ư Bồ Tát chi đạo. Thị Bồ Tát hạnh.

Thuyết thị ngữ thời, Văn-thù-sư-lợi sở tương Đại chúng, kỳ trung bát thiên thiên tử, giai phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29892)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27174)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21766)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22227)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20053)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21947)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24745)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18986)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24739)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30972)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23984)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27762)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26510)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21307)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23219)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38126)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18435)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19956)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19041)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23147)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23868)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22789)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22907)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29567)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20636)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15846)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18851)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19658)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20150)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19951)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18117)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22927)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34165)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16417)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16916)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39243)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26062)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20097)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18849)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24055)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29120)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22900)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30949)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21006)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26850)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20677)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26262)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23320)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19817)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24671)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30031)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20219)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20401)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15144)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15829)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23877)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant