Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Thọ Tân Tuế

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12636)
Kinh Thọ Tân Tuế


KINH THỌ TÂN TUẾ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0061 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

 Hán dịch: Ðời Tây Tấn nước Nguyệt Chi. Tam Tạng Trúc Pháp Hộ.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


Nghe như vầy, một thời đức Phật ở trong vườn Ðông Uyển Lộc Mẫu nước Xá Vệ, cùng đông đủ 500 chúng đại Tỳ kheo. Bấy giờ đức Thế tôn vào ngày rằm tháng bảy, trải tọa cụ nơi khoảng đất trống, có Tỳ kheo tăng trước sau đoanh vây. Ðức Phật bảo tôn giả A nan: “Bây giờ nơi khoảng đất trống này, ngươi hãy gấp đánh tiếng kiền chùy. Vì sao vậy ? Vì hôm nay là ngày rằm tháng bảy, chính là ngày thọ tân tuế”.

Khi ấy tôn giả A nan quỳ gối bên phải xuống đất chấp tay, rồi đọc bài kệ này :

Bậc Tịnh nhãn ai bằng

Vô sự không kén chọn.

Trí tuệ không nhiễm trước.

Những gì là thọ tuế.

Thế tôn trả lời tôn giả A nan :

Thọ tuế : ba nghiệp tịnh.

Thân, miệng, ý tạo ra.

Hai Tỳ kheo đối nhau.

Tự phơi bày lỗi lầm.

Rồi tự xưng tên tuổi.

Hôm nay chúng thọ tuế.

Tôi cũng tịnh ý thọ.

Chỉ mong thấy lỗi lầm.

Tôn giả A nan dùng kệ hỏi nghi thức thọ tuế:

Hằng sa Phật quá khứ.

Bích chi và Thanh văn.

Các đức Phật như vậy.

Hay chỉ có Thích Ca.

Thế tôn trả lời tôn giả A nan :

Phật quá khứ hằng sa.

Ðệ tử tâm thanh tịnh.

Ðều có các Phật pháp.

Ðâu chỉ Thích ca văn.

Bích chi không pháp này.

Không tuổi không đệ tử.

Một mình không bạn lữ.

Không thuyết pháp kẻ khác.

Phật Thế tôn đương lai.

Nhiều hằng hà sa số.

Họ cũng thọ tuổi này.

Như nay pháp Cù đàm.

Bấy giờ tôn giả A nan nghe lời này rồi vui mừng sung sướng, không thể tự kềm chế được, liền lên giảng đường tay cầm kiền chùy và nói như vầy : “Nay tôi đánh lên tiếng trống tín tâm của đức Như lai, các chúng đệ tử hiện hữu của đức Như lai thảy đều vân tập”. Khi ấy tôn giả A nan lại nói bài kệ này :

Hàng phục ma lực oán.

Trừ kiết sử sạch trơn.

Ðánh kiền chùy, đất trống.

Tỳ kheo nghe vân tập.

Những ai muốn nghe pháp.

Vượt qua biển sanh tử.

Nghe tiếng vi diệu này.

Thảy đều mau vân tập.

Bấy giờ tôn giả A nan đã đánh tiếng kiền chùy xong, đi đến chỗ đức Thế tôn cúi đầu lạy dưới chân ngài, đứng qua một bên, bạch đức Thế tôn rằng : “Nay đã đúng lúc, cúi mong đức Thế tôn có điều gì dạy bảo cho chúng con”. Bấy giờ đức Thế tôn bảo tôn giả A nan : “Các ngươi hãy theo thứ lớp ngồi xuống, Như lai tự biết thời”. Khi ấy đức Thế tôn ngồi trên tòa cỏ bảo các Tỳ kheo : “Tất cả các ngươi hãy ngồi trên tòa cỏ”. Các Tỳ kheo thưa : “Thưa vâng bạch Thế tôn”. Bấy giờ các Tỳ kheo đều ngồi xuống tòa cỏ. Lúc ấy đức Thế tôn im lặng quán sát các Tỳ kheo xong, liền bảo các Tỳ kheo : “Nay ta muốn thọ tân tuế. Ta có lỗi lầm gì với mọi người chăng ? Và không có phạm lỗi lầm gì về thân, khẩu, ý chăng ?”

Ðức Như lai nói như vậy xong, các Tỳ kheo im lặng không nói. Bấy giờ đức Như lai ba lần lại bảo các Tỳ kheo : “Nay ta muốn thọ tuế, song ta không có lỗi lầm gì với mọi người chăng ?”. Bấy giờ tôn giả Xá lợi phất từ tòa ngồi đứng dậy quỳ xuống, chắp tay bạch đức Thế tôn : “Các chúng Tỳ kheo quán sát về thân, khẩu, ý của đức Như lai không có lỗi lầm gì cả. Vì sao như vậy ? Vì ngày hôm nay đức Thế tôn đối với những người chưa độ thì đã độ, những người chưa giải thoát thì được giải thoát, những người chưa Niết bàn thì làm cho họ được Niết bàn, những người chưa được cứu hộ thì được cứu hộ, những người đui mù thì làm cho sáng suốt, ngài là bậc Y vương đối với những người bệnh, ngài là bậc độc tôn trong ba cõi, không ai có thể sánh kịp. Ngài là bậc tối tôn tối thượng, ai chưa khởi lên ý đạo thì ngài làm cho họ phát sanh ý đạo, những người chưa ngộ thì ngài làm cho được ngộ, ai chưa được nghe pháp thì ngài làm cho họ được nghe. Kẻ mê muội thì ngài chỉ cho họ con đường tắt để đưa họ đến chánh pháp. Do những nhân duyên đó cho nên đức Như lai không có lỗi lầm gì đối với mọi người, cũng không có lỗi lầm gì về thân, khẩu, ý của ngài cả”.

Bấy giờ tôn giả Xá lợi phất bạch đức Thế tôn : “Nay con cũng hướng về đức Như lai để tự phơi bày. Vậy con có lỗi lầm gì với đức Như lai và chúng Tỳ kheo không ?”. Ðức Thế tôn bảo : “Này Xá lợi phất, nay ngươi hoàn toàn không có những hành vi phi pháp về thân, khẩu, ý. Vì sao vậy ? Vì nay ngươi được trí tuệ không ai sánh bằng, có nhiều loại trí tuệ, vô lượng trí tuệ, vô biên trí tuệ, trí tuệ không ai sánh bằng, trí tuệ nhanh nhạy, trí tuệ sắc bén, thậm thâm trí, bình đẳng trí, ưa thích sự thiểu dục tri túc, có nhiều phương tiện, tâm niệm không sai lầm, tán loạn, tổng trì tam muội, căn nguyên cụ túc giới, thành tựu tam muội, thành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu giải thoát tri kiến, thành tựu sự dõng mảnh phi thường, có thể nhẫn chịu những điều dèm pha, biết điều ác là phi pháp, tâm tánh mẫu mực, không làm điều tàn bạo, giống như Ðông cung thái tử của Chuyển luân thánh vương sẽ nối dõi địa vị của vua, quay bánh xe báu. Xá lợi phất cũng lại như vậy, quay pháp luân thanh tịnh vô thượngchư thiên, người đời và loài rồng, quỷ thần hoặc Thiên ma cũng không thể làm được. Nay những điều ngươi đã nói thường luận nghị như pháp, chưa từng sai với chơn lý”.

Bấy giờ tôn giả Xá lợi phất bạch đức Phật rằng : “Năm trăm Tỳ kheo này đều (xin) sẽ thọ tuế. Năm trăm Tỳ kheo này đều không có lỗi lầm gì với đức Như lai chăng ?”. Ðức Thế tôn bảo : “Ta cũng không có quở trách gì về hành động thân, khẩu, ý của năm trăm Tỳ kheo này. Vì sao vậy ? Này Xá lợi phất, trong đại chúng nầy hết sức thanh tịnh, không có các tỳ vết ô uế. Nay trong chúng này vị hạ tọa nhỏ nhất cũng đắc được đạo quả Tu đà hoàn, chắc chắn sẽ tiến lên và chuyển bánh xe pháp một cách bất thối. Do lý do đó nên ta không có gì phiền trách chúng này”.

Khi ấy Bằng Kỳ Xà ở trong chúng này liền từ tòa đứng dậy, đến trước đức Thế tôn, đầu mặt lạy dưới chân đức Thế tôn thưa rằng : “Nay con có điều muốn luận bàn về việc này”. Ðức Thế tôn bảo : “Nếu ngươi có điều muốn nói thì nay đã đúng lúc”.

Bằng Kỳ Xà liền ở trước đức Phật tán thán đức PhậtTỳ kheo tăng nên nói bài kệ này :

Ngày mười lăm thanh tịnh.

Năm trăm Tỳ kheo họp.

Các trói buộc đều mở.

Không ái cũng không sanh.

Ðại thánh vương chuyển luân.

Có quần thần đoanh vây.

Cùng khắp cả thế giới.

Thiên thượngthế gian.

Ðại tướng dẫn mọi người.

Ðạo sư của loài người.

Ðệ tử thích nương tựa.

Ðược Tam đạt, Lục thông.

Ðều là chơn Phật tử.

Ðã sạch hết bụi trần.

Ðoạn trừ gai ái dục.

Ngày nay tự quy y.

Bấy giờ đức Thế tôn chấp nhận những điều Bằng Kỳ Xà nói. Khi ấy Bằng Kỳ Xà suy nghĩ : “Ngày hôm nay đức Như lai đã chấp nhận những điều ta nói”, nên tôn giả rất đổi hoan hỷ, vui mừng không sao tả được, liền từ tòa đứng dậy, đảnh lễ đức Thế tôn rồi lui về chỗ ngồi. Bấy giờ đức Thế tôn bảo các Tỳ kheo : “Người đệ tử làm kệ tụng số một trong chúng Thanh văn của ta chính là Tỳ kheo Bằng Kỳ Xà , đã nói những lời không nghi nan, cũng chính là Tỳ kheo Bằng Kỳ Xà vậy. Bấy giờ các Tỳ kheo nghe đức Phật dạy xong hoan hỷ phụng hành

ÐỨC PHẬT NÓI KINH THỌ TÂN TUẾ.

Xét kinh Thọ Tân Tuế này do Trúc Pháp Hộ dịch, bản của nước này, bản đời nhà Tống đều có biên chép. Trong Ðơn Tạng gọi là Thọ tuế kinh, nhưng lại có sự sai biệt lớn so với kinh này. Nay dựa theo Khai nguyên lục để kiểm tra thì kinh của Ðơn tạng đúng là nội dung của kinh Thọ tuế. Tạng kinh của đời nhà Tống này cùng với nội dung của kinh Tân tuế, văn thì khác nhưng nghĩa thì giống nhau, in tuồng như cùng một bản mà người khác dịch vậy. Song theo Khai nguyên lục thì cho kinh Tân tuế chỉ có một người dịch, ý nghĩa thiếu sót, chưa rõ ràng. Nay muốn phân loại như vậy để chờ các bậc hiền triết phán định cho nên đưa kinh này vào đây.

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43906)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 43022)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49000)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39832)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53774)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36821)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40799)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49727)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47305)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27689)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25841)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29875)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27156)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24722)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21295)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23205)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23864)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22781)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29558)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20630)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34157)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24664)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30008)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20208)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20399)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15136)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23861)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34058)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 23984)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29170)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60126)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27594)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68708)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24508)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26345)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20797)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20043)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27540)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46398)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25552)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29240)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188854)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27399)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31110)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33128)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23990)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25594)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26662)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36623)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27314)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30355)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37279)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23882)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36952)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27591)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28326)
Công Phu Khuya
(Xem: 24149)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant