Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Thọ Tân Tuế

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12637)
Kinh Thọ Tân Tuế


KINH THỌ TÂN TUẾ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0061 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

 Hán dịch: Ðời Tây Tấn nước Nguyệt Chi. Tam Tạng Trúc Pháp Hộ.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


Nghe như vầy, một thời đức Phật ở trong vườn Ðông Uyển Lộc Mẫu nước Xá Vệ, cùng đông đủ 500 chúng đại Tỳ kheo. Bấy giờ đức Thế tôn vào ngày rằm tháng bảy, trải tọa cụ nơi khoảng đất trống, có Tỳ kheo tăng trước sau đoanh vây. Ðức Phật bảo tôn giả A nan: “Bây giờ nơi khoảng đất trống này, ngươi hãy gấp đánh tiếng kiền chùy. Vì sao vậy ? Vì hôm nay là ngày rằm tháng bảy, chính là ngày thọ tân tuế”.

Khi ấy tôn giả A nan quỳ gối bên phải xuống đất chấp tay, rồi đọc bài kệ này :

Bậc Tịnh nhãn ai bằng

Vô sự không kén chọn.

Trí tuệ không nhiễm trước.

Những gì là thọ tuế.

Thế tôn trả lời tôn giả A nan :

Thọ tuế : ba nghiệp tịnh.

Thân, miệng, ý tạo ra.

Hai Tỳ kheo đối nhau.

Tự phơi bày lỗi lầm.

Rồi tự xưng tên tuổi.

Hôm nay chúng thọ tuế.

Tôi cũng tịnh ý thọ.

Chỉ mong thấy lỗi lầm.

Tôn giả A nan dùng kệ hỏi nghi thức thọ tuế:

Hằng sa Phật quá khứ.

Bích chi và Thanh văn.

Các đức Phật như vậy.

Hay chỉ có Thích Ca.

Thế tôn trả lời tôn giả A nan :

Phật quá khứ hằng sa.

Ðệ tử tâm thanh tịnh.

Ðều có các Phật pháp.

Ðâu chỉ Thích ca văn.

Bích chi không pháp này.

Không tuổi không đệ tử.

Một mình không bạn lữ.

Không thuyết pháp kẻ khác.

Phật Thế tôn đương lai.

Nhiều hằng hà sa số.

Họ cũng thọ tuổi này.

Như nay pháp Cù đàm.

Bấy giờ tôn giả A nan nghe lời này rồi vui mừng sung sướng, không thể tự kềm chế được, liền lên giảng đường tay cầm kiền chùy và nói như vầy : “Nay tôi đánh lên tiếng trống tín tâm của đức Như lai, các chúng đệ tử hiện hữu của đức Như lai thảy đều vân tập”. Khi ấy tôn giả A nan lại nói bài kệ này :

Hàng phục ma lực oán.

Trừ kiết sử sạch trơn.

Ðánh kiền chùy, đất trống.

Tỳ kheo nghe vân tập.

Những ai muốn nghe pháp.

Vượt qua biển sanh tử.

Nghe tiếng vi diệu này.

Thảy đều mau vân tập.

Bấy giờ tôn giả A nan đã đánh tiếng kiền chùy xong, đi đến chỗ đức Thế tôn cúi đầu lạy dưới chân ngài, đứng qua một bên, bạch đức Thế tôn rằng : “Nay đã đúng lúc, cúi mong đức Thế tôn có điều gì dạy bảo cho chúng con”. Bấy giờ đức Thế tôn bảo tôn giả A nan : “Các ngươi hãy theo thứ lớp ngồi xuống, Như lai tự biết thời”. Khi ấy đức Thế tôn ngồi trên tòa cỏ bảo các Tỳ kheo : “Tất cả các ngươi hãy ngồi trên tòa cỏ”. Các Tỳ kheo thưa : “Thưa vâng bạch Thế tôn”. Bấy giờ các Tỳ kheo đều ngồi xuống tòa cỏ. Lúc ấy đức Thế tôn im lặng quán sát các Tỳ kheo xong, liền bảo các Tỳ kheo : “Nay ta muốn thọ tân tuế. Ta có lỗi lầm gì với mọi người chăng ? Và không có phạm lỗi lầm gì về thân, khẩu, ý chăng ?”

Ðức Như lai nói như vậy xong, các Tỳ kheo im lặng không nói. Bấy giờ đức Như lai ba lần lại bảo các Tỳ kheo : “Nay ta muốn thọ tuế, song ta không có lỗi lầm gì với mọi người chăng ?”. Bấy giờ tôn giả Xá lợi phất từ tòa ngồi đứng dậy quỳ xuống, chắp tay bạch đức Thế tôn : “Các chúng Tỳ kheo quán sát về thân, khẩu, ý của đức Như lai không có lỗi lầm gì cả. Vì sao như vậy ? Vì ngày hôm nay đức Thế tôn đối với những người chưa độ thì đã độ, những người chưa giải thoát thì được giải thoát, những người chưa Niết bàn thì làm cho họ được Niết bàn, những người chưa được cứu hộ thì được cứu hộ, những người đui mù thì làm cho sáng suốt, ngài là bậc Y vương đối với những người bệnh, ngài là bậc độc tôn trong ba cõi, không ai có thể sánh kịp. Ngài là bậc tối tôn tối thượng, ai chưa khởi lên ý đạo thì ngài làm cho họ phát sanh ý đạo, những người chưa ngộ thì ngài làm cho được ngộ, ai chưa được nghe pháp thì ngài làm cho họ được nghe. Kẻ mê muội thì ngài chỉ cho họ con đường tắt để đưa họ đến chánh pháp. Do những nhân duyên đó cho nên đức Như lai không có lỗi lầm gì đối với mọi người, cũng không có lỗi lầm gì về thân, khẩu, ý của ngài cả”.

Bấy giờ tôn giả Xá lợi phất bạch đức Thế tôn : “Nay con cũng hướng về đức Như lai để tự phơi bày. Vậy con có lỗi lầm gì với đức Như lai và chúng Tỳ kheo không ?”. Ðức Thế tôn bảo : “Này Xá lợi phất, nay ngươi hoàn toàn không có những hành vi phi pháp về thân, khẩu, ý. Vì sao vậy ? Vì nay ngươi được trí tuệ không ai sánh bằng, có nhiều loại trí tuệ, vô lượng trí tuệ, vô biên trí tuệ, trí tuệ không ai sánh bằng, trí tuệ nhanh nhạy, trí tuệ sắc bén, thậm thâm trí, bình đẳng trí, ưa thích sự thiểu dục tri túc, có nhiều phương tiện, tâm niệm không sai lầm, tán loạn, tổng trì tam muội, căn nguyên cụ túc giới, thành tựu tam muội, thành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu giải thoát tri kiến, thành tựu sự dõng mảnh phi thường, có thể nhẫn chịu những điều dèm pha, biết điều ác là phi pháp, tâm tánh mẫu mực, không làm điều tàn bạo, giống như Ðông cung thái tử của Chuyển luân thánh vương sẽ nối dõi địa vị của vua, quay bánh xe báu. Xá lợi phất cũng lại như vậy, quay pháp luân thanh tịnh vô thượngchư thiên, người đời và loài rồng, quỷ thần hoặc Thiên ma cũng không thể làm được. Nay những điều ngươi đã nói thường luận nghị như pháp, chưa từng sai với chơn lý”.

Bấy giờ tôn giả Xá lợi phất bạch đức Phật rằng : “Năm trăm Tỳ kheo này đều (xin) sẽ thọ tuế. Năm trăm Tỳ kheo này đều không có lỗi lầm gì với đức Như lai chăng ?”. Ðức Thế tôn bảo : “Ta cũng không có quở trách gì về hành động thân, khẩu, ý của năm trăm Tỳ kheo này. Vì sao vậy ? Này Xá lợi phất, trong đại chúng nầy hết sức thanh tịnh, không có các tỳ vết ô uế. Nay trong chúng này vị hạ tọa nhỏ nhất cũng đắc được đạo quả Tu đà hoàn, chắc chắn sẽ tiến lên và chuyển bánh xe pháp một cách bất thối. Do lý do đó nên ta không có gì phiền trách chúng này”.

Khi ấy Bằng Kỳ Xà ở trong chúng này liền từ tòa đứng dậy, đến trước đức Thế tôn, đầu mặt lạy dưới chân đức Thế tôn thưa rằng : “Nay con có điều muốn luận bàn về việc này”. Ðức Thế tôn bảo : “Nếu ngươi có điều muốn nói thì nay đã đúng lúc”.

Bằng Kỳ Xà liền ở trước đức Phật tán thán đức PhậtTỳ kheo tăng nên nói bài kệ này :

Ngày mười lăm thanh tịnh.

Năm trăm Tỳ kheo họp.

Các trói buộc đều mở.

Không ái cũng không sanh.

Ðại thánh vương chuyển luân.

Có quần thần đoanh vây.

Cùng khắp cả thế giới.

Thiên thượngthế gian.

Ðại tướng dẫn mọi người.

Ðạo sư của loài người.

Ðệ tử thích nương tựa.

Ðược Tam đạt, Lục thông.

Ðều là chơn Phật tử.

Ðã sạch hết bụi trần.

Ðoạn trừ gai ái dục.

Ngày nay tự quy y.

Bấy giờ đức Thế tôn chấp nhận những điều Bằng Kỳ Xà nói. Khi ấy Bằng Kỳ Xà suy nghĩ : “Ngày hôm nay đức Như lai đã chấp nhận những điều ta nói”, nên tôn giả rất đổi hoan hỷ, vui mừng không sao tả được, liền từ tòa đứng dậy, đảnh lễ đức Thế tôn rồi lui về chỗ ngồi. Bấy giờ đức Thế tôn bảo các Tỳ kheo : “Người đệ tử làm kệ tụng số một trong chúng Thanh văn của ta chính là Tỳ kheo Bằng Kỳ Xà , đã nói những lời không nghi nan, cũng chính là Tỳ kheo Bằng Kỳ Xà vậy. Bấy giờ các Tỳ kheo nghe đức Phật dạy xong hoan hỷ phụng hành

ÐỨC PHẬT NÓI KINH THỌ TÂN TUẾ.

Xét kinh Thọ Tân Tuế này do Trúc Pháp Hộ dịch, bản của nước này, bản đời nhà Tống đều có biên chép. Trong Ðơn Tạng gọi là Thọ tuế kinh, nhưng lại có sự sai biệt lớn so với kinh này. Nay dựa theo Khai nguyên lục để kiểm tra thì kinh của Ðơn tạng đúng là nội dung của kinh Thọ tuế. Tạng kinh của đời nhà Tống này cùng với nội dung của kinh Tân tuế, văn thì khác nhưng nghĩa thì giống nhau, in tuồng như cùng một bản mà người khác dịch vậy. Song theo Khai nguyên lục thì cho kinh Tân tuế chỉ có một người dịch, ý nghĩa thiếu sót, chưa rõ ràng. Nay muốn phân loại như vậy để chờ các bậc hiền triết phán định cho nên đưa kinh này vào đây.

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1312)
Kinh này nói về cái chết, vô thường, mất mát… Kinh này không nói về vô ngã, nhưng nói rằng phải xa lìa “cái của tôi,”
(Xem: 1079)
Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định ...
(Xem: 1372)
Phật từ tướng bạch hào Phóng quang khắp thế giới Hội thượng Phật Bồ Tát Tán thán Phật Tỳ Lô
(Xem: 1752)
Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Girimānanda bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.
(Xem: 1855)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc già phạm ở thành Vương xá, trong đỉnh Thứu phong, cùng chúng đại tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị đều đến tụ tập.
(Xem: 2147)
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại tịnh xá Cấp cô độc, vườn Kỳ-đà, gần thành Xá-vệ.
(Xem: 2125)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến. Chỉ có pháp hiện tại, Tuệ quán chính ở đây,
(Xem: 3807)
Thiền quán về Duyên khởi Tính không và giai đoạn hậu thiền với mục đích làm tăng trưởng những phẩm hạnh cao quý.
(Xem: 9270)
Nghi Lễ Hàng Ngày NS Thích Nữ Giới Hương biên soạn
(Xem: 30493)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 4549)
Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở chùa Kỳ Viên thuộc thành Xá Vệ do Cấp Cô Độc phát tâm hiến cúng.
(Xem: 12319)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11686)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12944)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 9905)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 10821)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10587)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10782)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 16359)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 7189)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 5125)
Nói kinh Pháp cú Bắc truyền, được kết tập bằng tiếng Phạn, là để phân biệt với kinh Pháp cú Nam truyền, được kết tập bằng tiếng Pāli.
(Xem: 16603)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13936)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16660)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12204)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 16426)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14425)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16264)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12751)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12156)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11859)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15746)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 14092)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12071)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 15057)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 13190)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14623)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20814)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13309)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 11026)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 14448)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20492)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 14096)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 14819)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 12102)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15339)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11137)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10596)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12518)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 14372)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 16919)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11631)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 11394)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12102)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52294)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15532)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 14018)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11484)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13231)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12829)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant