Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Ưu Bà Tắc

05 Tháng Giêng 201400:00(Xem: 13945)
Kinh Ưu Bà Tắc


KINH ƯU BÀ TẮC

 

Tam tạng pháp sư Cù Đàm Tăng Già Đề Bà (người nước Kế-tân)

dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Đông-Tấn (317-420).

Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn tại Gia-nã-đại, năm 2012.

 

Đây là những điều chính tôi được nghe:

Thuở đó đức Phật đang ngự tại tinh xá Cấp-cô-độc, trong rừng cây Kì-đà, ở thành Xá-vệ. Một hôm nọ, trưởng giả Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị ưu bà tắc, đã tìm đến tịnh thất của tôn giả Xá Lị Phất. Các vị cúi đầu đảnh lễ tôn giả, rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Xá Lị Phất đã sử dụng nhiều phương tiện khéo léo để thuyết pháp cho các vị cư sĩ này, đem lại cho họ niềm vui pháp lạc, làm phát khởi nơi họ niềm khát ngưỡng đối với Tam Bảo. Sau đó, tôn giả Xá Lị Phất tới chỗ Phật ngự, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi xuống một bên. Trưởng giả Cấp Cô Độc và năm trăm vị ưu bà tắc cũng nối gót tôn giả, đi đến chỗ Phật ngự, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi xuống một bên. Sau khi mọi người đã an tọa, đức Phật dạy:

“Này thầy Xá Lị Phất! Thầy nên biết rằng, nếu một vị đệ tử tại gia đạo hạnh, gìn giữthực hành năm giới pháp một cách hòan hảo, và tu tập thành tựu bốn tâm tăng thượng, thì có thể an trú nơi niềm vui pháp lạc ngay trong hiện tại, rất dễ dàng, không khó khăn gì. Xá Lị Phất! Thầy cũng nên ghi nhận rằng, vị đệ tử tại gia đạo hạnh ấy sẽ không còn đọa lạc vào địa ngục, ngạ quỉbàng sinh. Một người như thế là đã đắc quả Tu-đà-hòan, nhất định thẳng tiến đến quả vị Chánh-giác, không còn thối đọa vào các nẻo ác; chỉ còn qua lại cõi Trờicõi Người tối đa bày lần nữa là chấm dứt sinh tử khổ đau.

“Thầy Xá Lị Phất! Người đệ tử tại gia đạo hạnh khéo gìn giữthực hành năm giới pháp như thế nào?

“Vị ấy xa lìa sự giết hại, trừ dứt sự giết hại, buông bỏ dao gậy; biết hổ biết thẹn, tập từ tập bi, bảo hộ cho mọi lòai sinh vật, kể cả các lọai côn trùng. Vị ấy diệt trừ tận gốc tâm niệm giết hại. Đó là giới pháp thứ nhất mà người đệ tử tại gia đạo hạnh đã gìn giữthực hành hòan hảo.

“Lại nữa, thầy Xá Lị Phất! Vị ấy xa lìa sự không cho mà lấy, trừ dứt sự không cho mà lấy, khi nào cho mới lấy; tâm không keo kiệt, thường hay bố thí, vui vẻ trong sự bố thí, bố thí mà không cầu đền đáp; tâm không tham lam, thấy tài vật của người mà không ham lấy về cho mình. Vị ấy diệt trừ tận gốc tâm niệm trộm cắp. Đó là giới pháp thứ hai mà người đệ tử tại gia đạo hạnh đã gìn giữthực hành hòan hảo.

“Lại nữa, thầy Xá Lị Phất! Vị ấy xa lìa sự tà dâm, trừ dứt sự tà dâm. Bất cứ là nam hay nữ, dù người ấy nằm trong sự bảo hộ của cha hay mẹ, hoặc cả cha lẫn mẹ, hoặc chị em, hoặc anh em, hoặc cha mẹ bên sui gia, hoặc gia đình sui gia, hoặc bởi người đồng tính, hoặc là vợ con hay chồng con kẻ khác, kể cả kẻ cuồng dâm khủng bố, hoặc kẻ đã hứa hôn, đối với người nam hay người nữ ở bất cứ chỗ nào trong những trường hợp này, đều không xâm phạm đến. Vị ấy diệt trừ tận gốc tâm niệm tà dâm. Đó là giới pháp thứ ba mà người đệ tử tại gia đạo hạnh đã gìn giữthực hành hòan hảo.

“Lại nữa, thầy Xá Lị Phất! Vị ấy xa lìa sự nói dối, trừ dứt sự nói dối; chỉ nói sự thật, vui thích sự chân thật, an trú vững chắc nơi sự chân thật; được tin cậy hòan tòan, không bao giờ dối gạt thế gian. Vị ấy diệt trừ tận gốc tâm niệm dối trá. Đó là giới pháp thứ tư mà người đệ tử tại gia đạo hạnh đã gìn giữthực hành hòan hảo.

“Lại nữa, thầy Xá Lị Phất! Vị ấy xa lìa sự uống rượu, trừ dứt sự uống rượu, diệt trừ tận gốc tánh thích uống rượu. Đó là giới pháp thứ năm mà người đệ tử tại gia đạo hạnh đã gìn giữthực hành hòan hảo.

“Thầy Xá Lị Phất! Người đệ tử tại gia đạo hạnh thành tựu bốn tâm tăng thượng như thế nào thì có thể an trú nơi niềm vui pháp lạc ngay trong hiện tại, rất dễ dàng, không khó khăn?

“Trước hết, vị ấy quán niệm về Như Lai như thế này: Như Lai là bậc Không Dính Mắc, bậc Đẳng Chánh Giác, bậc Minh Hạnh Túc, bậc Thiện Thệ, bậc Thế Gian Giải, bậc Vô Thượng Sĩ, bậc Điều Ngự Trượng Phu, bậc Thiên Nhân Sư, là Phật, là đức Thế Tôn. Quán niệm về Như Lai như thế thì những dục vọng xấu xa đều bị tiêu diệt, trong tâm vị ấy hòan tòan dứt sạch những niệm bất thiện, uế nhiễm, sầu khổlo âu. Nhờ niệm tưởng tới Như Lai mà tâm ý vị ấy trở nên trong sạch, có được niềm vui. Như vậy là vị đệ tử tại gia đạo hạnh ấy thành tựu được tâm tăng thượng thứ nhất, được an trú nơi niềm vui pháp lạc ngay trong hiện tại, rất dễ dàng, không khó khăn.

“Lại nữa, thầy Xá Lị Phất! Vị ấy quán niệm về Pháp như thế này: Giáo pháp đựợc đức Thế Tôn giảng dạy thật khéo léo, chắc chắn đưa tới thành quả giải thóat hòan tòan. Giáo pháp đó đưa tới trạng thái không ưu phiền, không bức não, có tính cách thường hằng, không dời đổi. Quán niệm và biết rõ như thế về Pháp thì những dục vọng xấu xa đều bị tiêu diệt, trong tâm vị ấy không còn những niệm bất thiện, uế nhiễm, sầu khổlo âu. Nhờ niệm tưởng tới Pháp mà tâm ý vị ấy trở nên trong sạch, có được niềm vui. Như vậy là vị đệ tử tại gia đạo hạnh ấy thành tựu được tâm tăng thượng thứ hai, được an trú nơi niềm vui pháp lạc ngay trong hiện tại, rất dễ dàng, không khó khăn.

“Lại nữa, thầy Xá Lị Phất! Vị ấy quán niệm về Tăng như thế này: Thánh chúng của Như Lai là những bậc hướng về nẻo thiện, đi trên đường chánh, thực hành giáo pháp, sống đúng theo giáo pháp. Trong thánh chúng ấy có các bậc A-la-hán và sắp chứng A-la-hán, các bậc A-na-hàm và sắp chứng A-na-hàm, các bậc Tư-đà-hàm và sắp chứng Tư-đà-hàm, các bậc Tu-đà-hòan và sắp chứng Tu-đà-hòan; – tức là có đủ cả bốn đôi tám bậc. Thánh chúng của Như Lai đã thành tựu được Giới, thành tựu được Định, thành tựu được Tuệ, thành tựu được Giải-thóat, và thành tựu được Giải-thóat-tri-kiến. Thánh chúng ấy đáng được tôn kính, đáng được quí trọng, đáng được phụng sự, đáng được cúng dường; đó là ruộng phước tốt nhất cho thế gian. Nhờ niệm tưởng tới Tăng mà tâm ý vị ấy trở nên trong sạch, có được niềm vui. Như vậy là vị đệ tử tại gia đạo hạnh ấy thành tựu được tâm tăng thượng thứ ba, được an trú nơi niềm vui pháp lạc ngay trong hiện tại, rất dễ dàng, không khó khăn.

“Lại nữa, thầy Xá Lị Phất! Vị ấy quán niệm về Giới như thế này: Giới luật của Phật không có khuyết điểm, không bị xuyên thủng, vững chắc như đất, không uế trược, không hư vọng, được các bậc hiền thánh khen ngợi, tiếp nhậnhành trì. Quán niệm và biết rõ như thế về Giới thì những dục vọng xấu xa đều bị tiêu diệt, trong tâm vị ấy không còn những niệm bất thiện, uế nhiễm, sầu khổlo âu. Nhờ niệm tưởng tới Giới mà tâm ý vị ấy trở nên trong sạch, có được niềm vui. Như vậy là vị đệ tử tại gia đạo hạnh ấy thành tựu được tâm tăng thượng thứ tư, được an trú nơi niềm vui pháp lạc ngay trong hiện tại, rất dễ dàng, không khó khăn.

“Này thầy Xá Lị Phất! Nếu thầy biết rằng một vị đệ tử tại gia đạo hạnh giữ gìnthực hành năm giới pháp một cách hòan hảo, cùng tu tập thành tựu bốn tâm tăng thượng, có thể an trú nơi niềm vui pháp lạc ngay trong hiện tại, rất dễ dàng, không khó khăn gì, thì, này Xá Lị Phất, thầy cũng nên ghi nhận rằng, vị đệ tử tại gia đạo hạnh ấy sẽ không còn đọa lạc vào địa ngục, ngạ quỉ, bàng sinh, hoặc nẻo ác nào khác. Một người như thế là đã đắc quả Tu-đà-hòan, nhất định thẳng tiến đến quả vị Chánh-giác, không thối đọa vào các nẻo ác; chỉ còn qua lại cõi Trờicõi Người tối đa bảy lần nữa là chấm dứt sinh tử khổ đau.”

Bấy giờ đức Phật nói bài tụng rằng:

Kẻ trí sống tại gia

Thấy sợ cảnh địa ngục,

Nên thọ trì Thánh Pháp.

Dứt trừ mọi điều ác.

Biết rõ và hành trì:

Không giết hại chúng sinh;

Chân thật, không dối trá;

Không trộm tài vật người;

Trung kiên đạo vợ chồng,

Thói tà dâm dứt tuyệt;

Nhất quyết không uống rượu

Để tâm chẳng lọan cuồng.

Thường niệm tưởng Chư Phật,

Thường niệm tưởng Chánh Pháp,

Niệm Tăngniệm Giới,

Do đó tâm an vui.

Muốn thực hành bố thí

Để vun trồng phước đức,

Trước cúng bậc Tịch Tĩnh,

Được phước báo lớn nhất.

Nghe đây Xá Lị Phất!

Ta nói “bậc Tịch Tĩnh”:

Như bò và chim câu,

Tùy lọai chúng sinh ra,

Có con đen, con trắng,

Có con đỏ, con vàng,

Màu đốm hay màu tuyền…

Dù chúng màu sắc gì,

Xấu tốt không đáng kể.

Bò huấn luyện thuần thục,

sức mạnh chuyên chở,

Đi nhanh lại về nhanh,

Đó là lòai hữu dụng.

nhân gian cũng vậy,

Người dù thuộc giới nào,

Sát đế lị, phạm chí,

Cư sĩ, hay thợ thuyền…

Những ai trì tịnh giới,

Không đắm nhiễm thế gian,

Trở thành bậc Thiện Thệ,

Cúng dường những bậc ấy,

Được phước báo rất lớn;

Phàm phu không hiểu biết,

Không tu, không trí tuệ,

Cúng dường những kẻ ấy,

Phước báo không đáng kể.

Có sáng mới chiếu soi,

Không sáng lấy gì soi?

Phật tử cần tu tuệ,

Căn lành thêm vững bền,

Chỉ sinh về cõi lành,

Qua lại cõi Trời, Người

Nhiều lắm là bảy lần,

Cuối cùng đạt Niết Bàn.

Đó là những lời đức Phật đã dạy. Tôn giả Xá Lị Phất, các vị tì kheo, trưởng giả Cấp Cô Độc và năm trăm vị ưu bà tắc, sau khi nghe lời Phật dạy, đều hoan hỉ phụng hành.

(Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh, quyển 1, trang 616)

 

LƯU Ý: Xin đừng nhầm lẫn kinh Ưu Bà Tắc này với kinh ƯU BÀ TẮC GIỚI, thuộc hệ kinh luật đại thừa, do tam tạng pháp sư Đàm Vô Sấm (385-433) dịch từ Phạn văn ra Hán văn vào năm 426, tại nước Bắc-Lương (397-439), Trung-quốc, được thu vào tạng Đại Chánh, quyển 24, mang số 1488, trang 1034.


PHỤ GHI: Liên quan đến bậc Tu-đà-hoàn, trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, đức Phật dạy: “Tu-đà-hoàn có hai hạng: một là hạng độn căn; hai là hạng lợi căn. Hạng độn căn thì phải qua lại giữa cõi Ngườicõi Trời bảy lần mới chứng quả A-la-hán. Hạng độn căn này lại còn có năm hạng nữa: có hạng thì phải qua lại sáu lần; có hạng thì phải qua lại 5 lần; có hạng thì phải qua lại bốn lần; có hạng thì phải qua lại ba lần; có hạng thì chỉ qua lại hai lần, mới chứng quả A-la-hán. Còn hạng lợi căn thì chứng quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán ngay trong đời hiện tại.”


(Đại Bát Niết Bàn Kinh, phẩm “Ca Diếp Bồ Tát”, Tam tạng pháp sư Đàm Vô Sấm dịch ra Hán văn tại nước Bắc-Lương (397-460), thời đại Đông- Tấn Liệt Quốc, Tạng Đại Chánh, quyển 12, kinh số 374. Hạnh Cơ trích dịch ra Việt văn.)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13322)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 18010)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12544)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 54318)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14506)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 13893)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58208)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 13376)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11972)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 14728)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12205)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 13720)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13399)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 12243)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 11921)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42166)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 38923)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14812)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12790)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16104)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14530)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 13767)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 16470)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13217)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12986)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 14262)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14192)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16579)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12433)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14450)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11405)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11102)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13257)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13958)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13252)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13067)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13569)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 13727)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33742)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11407)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 13013)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13139)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11708)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17972)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11511)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11935)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11605)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 19053)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12642)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11441)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13226)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15862)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11932)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11780)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12889)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12727)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 14034)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13052)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 13026)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13377)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant