Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Ưu Bà Tắc

05 Tháng Giêng 201400:00(Xem: 13946)
Kinh Ưu Bà Tắc


KINH ƯU BÀ TẮC

 

Tam tạng pháp sư Cù Đàm Tăng Già Đề Bà (người nước Kế-tân)

dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Đông-Tấn (317-420).

Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn tại Gia-nã-đại, năm 2012.

 

Đây là những điều chính tôi được nghe:

Thuở đó đức Phật đang ngự tại tinh xá Cấp-cô-độc, trong rừng cây Kì-đà, ở thành Xá-vệ. Một hôm nọ, trưởng giả Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị ưu bà tắc, đã tìm đến tịnh thất của tôn giả Xá Lị Phất. Các vị cúi đầu đảnh lễ tôn giả, rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Xá Lị Phất đã sử dụng nhiều phương tiện khéo léo để thuyết pháp cho các vị cư sĩ này, đem lại cho họ niềm vui pháp lạc, làm phát khởi nơi họ niềm khát ngưỡng đối với Tam Bảo. Sau đó, tôn giả Xá Lị Phất tới chỗ Phật ngự, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi xuống một bên. Trưởng giả Cấp Cô Độc và năm trăm vị ưu bà tắc cũng nối gót tôn giả, đi đến chỗ Phật ngự, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi xuống một bên. Sau khi mọi người đã an tọa, đức Phật dạy:

“Này thầy Xá Lị Phất! Thầy nên biết rằng, nếu một vị đệ tử tại gia đạo hạnh, gìn giữthực hành năm giới pháp một cách hòan hảo, và tu tập thành tựu bốn tâm tăng thượng, thì có thể an trú nơi niềm vui pháp lạc ngay trong hiện tại, rất dễ dàng, không khó khăn gì. Xá Lị Phất! Thầy cũng nên ghi nhận rằng, vị đệ tử tại gia đạo hạnh ấy sẽ không còn đọa lạc vào địa ngục, ngạ quỉbàng sinh. Một người như thế là đã đắc quả Tu-đà-hòan, nhất định thẳng tiến đến quả vị Chánh-giác, không còn thối đọa vào các nẻo ác; chỉ còn qua lại cõi Trờicõi Người tối đa bày lần nữa là chấm dứt sinh tử khổ đau.

“Thầy Xá Lị Phất! Người đệ tử tại gia đạo hạnh khéo gìn giữthực hành năm giới pháp như thế nào?

“Vị ấy xa lìa sự giết hại, trừ dứt sự giết hại, buông bỏ dao gậy; biết hổ biết thẹn, tập từ tập bi, bảo hộ cho mọi lòai sinh vật, kể cả các lọai côn trùng. Vị ấy diệt trừ tận gốc tâm niệm giết hại. Đó là giới pháp thứ nhất mà người đệ tử tại gia đạo hạnh đã gìn giữthực hành hòan hảo.

“Lại nữa, thầy Xá Lị Phất! Vị ấy xa lìa sự không cho mà lấy, trừ dứt sự không cho mà lấy, khi nào cho mới lấy; tâm không keo kiệt, thường hay bố thí, vui vẻ trong sự bố thí, bố thí mà không cầu đền đáp; tâm không tham lam, thấy tài vật của người mà không ham lấy về cho mình. Vị ấy diệt trừ tận gốc tâm niệm trộm cắp. Đó là giới pháp thứ hai mà người đệ tử tại gia đạo hạnh đã gìn giữthực hành hòan hảo.

“Lại nữa, thầy Xá Lị Phất! Vị ấy xa lìa sự tà dâm, trừ dứt sự tà dâm. Bất cứ là nam hay nữ, dù người ấy nằm trong sự bảo hộ của cha hay mẹ, hoặc cả cha lẫn mẹ, hoặc chị em, hoặc anh em, hoặc cha mẹ bên sui gia, hoặc gia đình sui gia, hoặc bởi người đồng tính, hoặc là vợ con hay chồng con kẻ khác, kể cả kẻ cuồng dâm khủng bố, hoặc kẻ đã hứa hôn, đối với người nam hay người nữ ở bất cứ chỗ nào trong những trường hợp này, đều không xâm phạm đến. Vị ấy diệt trừ tận gốc tâm niệm tà dâm. Đó là giới pháp thứ ba mà người đệ tử tại gia đạo hạnh đã gìn giữthực hành hòan hảo.

“Lại nữa, thầy Xá Lị Phất! Vị ấy xa lìa sự nói dối, trừ dứt sự nói dối; chỉ nói sự thật, vui thích sự chân thật, an trú vững chắc nơi sự chân thật; được tin cậy hòan tòan, không bao giờ dối gạt thế gian. Vị ấy diệt trừ tận gốc tâm niệm dối trá. Đó là giới pháp thứ tư mà người đệ tử tại gia đạo hạnh đã gìn giữthực hành hòan hảo.

“Lại nữa, thầy Xá Lị Phất! Vị ấy xa lìa sự uống rượu, trừ dứt sự uống rượu, diệt trừ tận gốc tánh thích uống rượu. Đó là giới pháp thứ năm mà người đệ tử tại gia đạo hạnh đã gìn giữthực hành hòan hảo.

“Thầy Xá Lị Phất! Người đệ tử tại gia đạo hạnh thành tựu bốn tâm tăng thượng như thế nào thì có thể an trú nơi niềm vui pháp lạc ngay trong hiện tại, rất dễ dàng, không khó khăn?

“Trước hết, vị ấy quán niệm về Như Lai như thế này: Như Lai là bậc Không Dính Mắc, bậc Đẳng Chánh Giác, bậc Minh Hạnh Túc, bậc Thiện Thệ, bậc Thế Gian Giải, bậc Vô Thượng Sĩ, bậc Điều Ngự Trượng Phu, bậc Thiên Nhân Sư, là Phật, là đức Thế Tôn. Quán niệm về Như Lai như thế thì những dục vọng xấu xa đều bị tiêu diệt, trong tâm vị ấy hòan tòan dứt sạch những niệm bất thiện, uế nhiễm, sầu khổlo âu. Nhờ niệm tưởng tới Như Lai mà tâm ý vị ấy trở nên trong sạch, có được niềm vui. Như vậy là vị đệ tử tại gia đạo hạnh ấy thành tựu được tâm tăng thượng thứ nhất, được an trú nơi niềm vui pháp lạc ngay trong hiện tại, rất dễ dàng, không khó khăn.

“Lại nữa, thầy Xá Lị Phất! Vị ấy quán niệm về Pháp như thế này: Giáo pháp đựợc đức Thế Tôn giảng dạy thật khéo léo, chắc chắn đưa tới thành quả giải thóat hòan tòan. Giáo pháp đó đưa tới trạng thái không ưu phiền, không bức não, có tính cách thường hằng, không dời đổi. Quán niệm và biết rõ như thế về Pháp thì những dục vọng xấu xa đều bị tiêu diệt, trong tâm vị ấy không còn những niệm bất thiện, uế nhiễm, sầu khổlo âu. Nhờ niệm tưởng tới Pháp mà tâm ý vị ấy trở nên trong sạch, có được niềm vui. Như vậy là vị đệ tử tại gia đạo hạnh ấy thành tựu được tâm tăng thượng thứ hai, được an trú nơi niềm vui pháp lạc ngay trong hiện tại, rất dễ dàng, không khó khăn.

“Lại nữa, thầy Xá Lị Phất! Vị ấy quán niệm về Tăng như thế này: Thánh chúng của Như Lai là những bậc hướng về nẻo thiện, đi trên đường chánh, thực hành giáo pháp, sống đúng theo giáo pháp. Trong thánh chúng ấy có các bậc A-la-hán và sắp chứng A-la-hán, các bậc A-na-hàm và sắp chứng A-na-hàm, các bậc Tư-đà-hàm và sắp chứng Tư-đà-hàm, các bậc Tu-đà-hòan và sắp chứng Tu-đà-hòan; – tức là có đủ cả bốn đôi tám bậc. Thánh chúng của Như Lai đã thành tựu được Giới, thành tựu được Định, thành tựu được Tuệ, thành tựu được Giải-thóat, và thành tựu được Giải-thóat-tri-kiến. Thánh chúng ấy đáng được tôn kính, đáng được quí trọng, đáng được phụng sự, đáng được cúng dường; đó là ruộng phước tốt nhất cho thế gian. Nhờ niệm tưởng tới Tăng mà tâm ý vị ấy trở nên trong sạch, có được niềm vui. Như vậy là vị đệ tử tại gia đạo hạnh ấy thành tựu được tâm tăng thượng thứ ba, được an trú nơi niềm vui pháp lạc ngay trong hiện tại, rất dễ dàng, không khó khăn.

“Lại nữa, thầy Xá Lị Phất! Vị ấy quán niệm về Giới như thế này: Giới luật của Phật không có khuyết điểm, không bị xuyên thủng, vững chắc như đất, không uế trược, không hư vọng, được các bậc hiền thánh khen ngợi, tiếp nhậnhành trì. Quán niệm và biết rõ như thế về Giới thì những dục vọng xấu xa đều bị tiêu diệt, trong tâm vị ấy không còn những niệm bất thiện, uế nhiễm, sầu khổlo âu. Nhờ niệm tưởng tới Giới mà tâm ý vị ấy trở nên trong sạch, có được niềm vui. Như vậy là vị đệ tử tại gia đạo hạnh ấy thành tựu được tâm tăng thượng thứ tư, được an trú nơi niềm vui pháp lạc ngay trong hiện tại, rất dễ dàng, không khó khăn.

“Này thầy Xá Lị Phất! Nếu thầy biết rằng một vị đệ tử tại gia đạo hạnh giữ gìnthực hành năm giới pháp một cách hòan hảo, cùng tu tập thành tựu bốn tâm tăng thượng, có thể an trú nơi niềm vui pháp lạc ngay trong hiện tại, rất dễ dàng, không khó khăn gì, thì, này Xá Lị Phất, thầy cũng nên ghi nhận rằng, vị đệ tử tại gia đạo hạnh ấy sẽ không còn đọa lạc vào địa ngục, ngạ quỉ, bàng sinh, hoặc nẻo ác nào khác. Một người như thế là đã đắc quả Tu-đà-hòan, nhất định thẳng tiến đến quả vị Chánh-giác, không thối đọa vào các nẻo ác; chỉ còn qua lại cõi Trờicõi Người tối đa bảy lần nữa là chấm dứt sinh tử khổ đau.”

Bấy giờ đức Phật nói bài tụng rằng:

Kẻ trí sống tại gia

Thấy sợ cảnh địa ngục,

Nên thọ trì Thánh Pháp.

Dứt trừ mọi điều ác.

Biết rõ và hành trì:

Không giết hại chúng sinh;

Chân thật, không dối trá;

Không trộm tài vật người;

Trung kiên đạo vợ chồng,

Thói tà dâm dứt tuyệt;

Nhất quyết không uống rượu

Để tâm chẳng lọan cuồng.

Thường niệm tưởng Chư Phật,

Thường niệm tưởng Chánh Pháp,

Niệm Tăngniệm Giới,

Do đó tâm an vui.

Muốn thực hành bố thí

Để vun trồng phước đức,

Trước cúng bậc Tịch Tĩnh,

Được phước báo lớn nhất.

Nghe đây Xá Lị Phất!

Ta nói “bậc Tịch Tĩnh”:

Như bò và chim câu,

Tùy lọai chúng sinh ra,

Có con đen, con trắng,

Có con đỏ, con vàng,

Màu đốm hay màu tuyền…

Dù chúng màu sắc gì,

Xấu tốt không đáng kể.

Bò huấn luyện thuần thục,

sức mạnh chuyên chở,

Đi nhanh lại về nhanh,

Đó là lòai hữu dụng.

nhân gian cũng vậy,

Người dù thuộc giới nào,

Sát đế lị, phạm chí,

Cư sĩ, hay thợ thuyền…

Những ai trì tịnh giới,

Không đắm nhiễm thế gian,

Trở thành bậc Thiện Thệ,

Cúng dường những bậc ấy,

Được phước báo rất lớn;

Phàm phu không hiểu biết,

Không tu, không trí tuệ,

Cúng dường những kẻ ấy,

Phước báo không đáng kể.

Có sáng mới chiếu soi,

Không sáng lấy gì soi?

Phật tử cần tu tuệ,

Căn lành thêm vững bền,

Chỉ sinh về cõi lành,

Qua lại cõi Trời, Người

Nhiều lắm là bảy lần,

Cuối cùng đạt Niết Bàn.

Đó là những lời đức Phật đã dạy. Tôn giả Xá Lị Phất, các vị tì kheo, trưởng giả Cấp Cô Độc và năm trăm vị ưu bà tắc, sau khi nghe lời Phật dạy, đều hoan hỉ phụng hành.

(Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh, quyển 1, trang 616)

 

LƯU Ý: Xin đừng nhầm lẫn kinh Ưu Bà Tắc này với kinh ƯU BÀ TẮC GIỚI, thuộc hệ kinh luật đại thừa, do tam tạng pháp sư Đàm Vô Sấm (385-433) dịch từ Phạn văn ra Hán văn vào năm 426, tại nước Bắc-Lương (397-439), Trung-quốc, được thu vào tạng Đại Chánh, quyển 24, mang số 1488, trang 1034.


PHỤ GHI: Liên quan đến bậc Tu-đà-hoàn, trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, đức Phật dạy: “Tu-đà-hoàn có hai hạng: một là hạng độn căn; hai là hạng lợi căn. Hạng độn căn thì phải qua lại giữa cõi Ngườicõi Trời bảy lần mới chứng quả A-la-hán. Hạng độn căn này lại còn có năm hạng nữa: có hạng thì phải qua lại sáu lần; có hạng thì phải qua lại 5 lần; có hạng thì phải qua lại bốn lần; có hạng thì phải qua lại ba lần; có hạng thì chỉ qua lại hai lần, mới chứng quả A-la-hán. Còn hạng lợi căn thì chứng quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán ngay trong đời hiện tại.”


(Đại Bát Niết Bàn Kinh, phẩm “Ca Diếp Bồ Tát”, Tam tạng pháp sư Đàm Vô Sấm dịch ra Hán văn tại nước Bắc-Lương (397-460), thời đại Đông- Tấn Liệt Quốc, Tạng Đại Chánh, quyển 12, kinh số 374. Hạnh Cơ trích dịch ra Việt văn.)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12840)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12767)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11812)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11805)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12412)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12461)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19921)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12054)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12081)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16967)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12751)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15168)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16216)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12964)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12318)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11986)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11991)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13230)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16587)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13300)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12591)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11912)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19938)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11246)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11334)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10473)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11161)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11029)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10094)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11811)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11705)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12023)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11170)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11411)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12131)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12619)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10841)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18070)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11791)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 10016)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11298)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13248)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16659)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11941)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10992)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11928)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28891)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12436)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53200)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35583)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16152)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12258)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12401)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11480)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17287)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15074)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14684)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13930)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11790)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15128)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant