Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Luận Tập Bộ Toàn quyển thứ 32. Ngài Thế Thân Bồ-Tát tạo luận bằng chữ Phạn. Ngài Tam Tạng pháp sưNghĩa Tịnh phụng chiếu dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán Sa-môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc
dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt nhân lần nhập thất thứ tư tại Tu ViệnĐa Bảo Úc Đại Lợi. Luận nầy dịch vào ngày 28.12.2006. Tỳ Kheo Thích Hạnh Nhẫn góp phần hiệu đính xong lần thứ nhất vào ngày 10.4.2016.
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
Phật nói các: Sình trướng Tiếp xúc, trừ ý dâm, Theo được lời Thế Tôn Được thắng quả không sót.
Giới tịnh, có nghe, nghĩ Sách tiến thường tu tập, Buộc niệm quán các cảnh Đây là nhân giải thoát.
Nếu người có nhiễm sân Và hôn trầm thụy miên, Trạo cử, ác tác. Nghi Năm thứ ngăn tu Định.
Ít nghe, ở đông người, Ham vui thích sự hèn, Ái thân và thọ dụng Cũng ngăn được tu Định.
Loạn tâm có năm duyên Tình tán theo các cảnh Đắm vị và trầm, cử, Ngã mạn, nặng danh tiếng.
Bí-xu nương Thánh giáo Có lỗi phải nói trừ, Khéo lấy duyên trụ tâm Đó là hành tối thắng.
Tiếp, ở nơi yên lặng Không hề có trở ngại,
Sau đó ngưng nghĩ tà Là nghiệp đầu Bí-xu.
Nên ở rừng thây chết, Đắp y phục phấn tảo, Thường cầu sự tĩnh chỉ Đoạn trừ tâm dâm nhiễm.
Khất thực thấy người nữ Phải quán là bất tịnh, Thu mắt trừ ý tà, Chính tâm nhận đồ ăn.
Lắm lời, nhiều việc tạp Đều phải nên xa lìa, Duyên phiền não lại bức Lực tuệ nên tu nhẫn.
Dưới cây trong bụi cỏ Hoặc ở trong hang động, Khi quán nên ở đây Yên tịnh dễ tu tâm.
Khi duyên cảnh tập định Không quá cao quá thấp, Không nên quá gần, xa Khiến tương ưng với cảnh.
Khéo giữ cảnh được duyên Khéo quán sát rành rõ, Khi nhắm mắt trụ tâm Cũng như mở mắt thấy.
Căn môn đều nhiếp soát, Trụ niệm ngưng nội tâm, Duyên cảnh quán hiện tiền Niệm niệm khiến liên tục.
Với tướng được giữ trước Dụng tâm quán hình mạo Sình trướng bên nữ căn Đáng sợđáng khinh hiềm.
Giống như nước ao đục Gió thổi khiến động dao, Khi nhìn ảnh các cây Không trụ được sáng tỏ.
Nước tâm nhơ phiền não Bị gió tình loạn thổi,
Khi lắng tâm quán sát Tối tăm không thể trụ.
Tâm chìm nên sách tiến Nên quán sự thắng diệu, Như khốn đỉa hút máu Rưới nước khiến hồi tỉnh.
Lại phải chóng thu liễm An tâm nơi cảnh cũ, Khiến ý có kham năng Khéo điều đều tùy niệm.
Nếu tâm mà trạo cử Nên nghĩ chán sự ác Khiến tâm trụ tịch tĩnh Như câu móc đầu voi.
Lìa xa trầm, trạo cử Nên bình đẳngvận tâm Tùy tình trụ nơi xả Khi ấy không lỗi lầm.
Từ đây dần trụ được Giữ tướng ảnh tâm an Sáng tỏ hành trung đạo Cầm đèn chính niệm chiếu.
Khi ấy dùng Tầm, Tứ Nên lần lượtquán sát Định ảnh tức liền sinh Rõ ràng trụ ở trước.
Tịnh sáng không dao động Như hình Đại Trượng Phu Ảnh này vọng quán trước Chính là tướng sai khác.
Tướng này đã sinh rồi Các dục ác liền trừ Tức người buộc tâm này Tướng phương tiện Sơ định.
Thứ biết thể của sân Vốn do tham dục phát, Ái dục đã trừ rồi Lìa được khỏi sân khuể.
Tiếp dùng niệm sách tiến Trừ bỏ tâm hôn trầm,
Đã quán tướng sai khác Nghi tình liền ngưng dứt.
Thứ phải trừ ác tác Khéo đi đường an ổn, Tịch tĩnh không chướng ngại Phòng ngừa được trạo cử.
Nên biết dùng tâm thô Quán tướng được giữ kia, Liền ở trong tâm ảnh Dùng ti vi tế cầu.
Thấy tâm hỷ sai khác Do đây được khinh an, Thứ chứng được định lạc Định chi thứ như vậy.
Tức là định căn bản Khéo an nơi tâm niệm, Giống như muốn đến thôn Và đến ở trong thôn.
Đã được định căn bản Lại tu thêm hành khác Được Tha tâm, Túc trụ, Thần thôngThiên nhãn, nhĩ.
Ở đây khi có Tư Tâm chưa được tĩnh trụ Giống như sông có sóng Nên biết địa chư cao.
Đã được Sơ định rồi Nhưng trụ nơi sở duyên, Tiếp y Định thứ hai Tầm, Tư đều ngưng dứt.
Tuy trụ được vị này Còn có nước hỷ động, Khi vào định thứ ba Tâm liền được tĩnh trụ.
Do tâm ấy có lạc Chưa thể khiến trụ niệm, Đã chứng định thứ tư Các lỗi đều dứt trừ.
Phần thối, phần thắng tiến, Phần trụ, phần quyết trạch,
Tĩnh lự có bốn loại Người tu định phải biết.
Nếu định thuận phiền não Đây gọi là phần thối, Sau thắng là phần thắng, Trụ tụ trụ nên biết.
Do trước khéo phân biệt Là nhân quyết trạch đạo, Định này với được kia Gọi là phần quyết trạch.
Nơi các tướng vô thường Làm các hành giải Khổ... Nếu người được định này Là các phần đạo: Noãn...
Với các tướng xanh, trướng Sự quán có nhiều đường, Như Thánh giáotu hành Khác nhau phải nên biết.
Tử thi gió vào bụng Nơi huyệt có mủ chảy Cả háng cũng đều khô Gọi đó là sưng trướng.
Không ái phần thân thô Chỉ tham thân tế hoạt, Với ngưới tâm nhiễm này Khiến tu quán như vậy.
Hoặc ở nơi tử thi Có ít mủ trắng chảy, Thịt còn lại đều xanh Gọi đó là bầm xanh.
Thấy sắc mà sinh ái Đó gọi người ái sắc, Đối trị dùng xanh bầm, Mặt trời lúc nắng cháy.
Tử thi khắp chảy mủ Đó là tướng mủ chảy, Với người ái hương kia Khiến quán ngừng tâm nhiễm.
Lưng tử thi đứt nát Gọi là tướng đoạn hoại,
Với người ái toàn thân Đại Tiên Tôn vì nói.
Đối trị ái da thịt Vì nói tướng thực tàn, Tay, chân các phần xương Tùy chỗ đều phân tán.
Với người tham các phần Nói tướng răng xương loạn, Ngay nơi tướng xương loạn Dao, gậy phá chia lìa.
Cũng vì ái toàn thân Khiến quán tướng đả loạn Thi hài bị dao chém Hoặc bị gậy, tên phá.
Máu chảy khắp thân tàn Gọi là tướng huyết đồ. Sạch sẽ hương xoa thân Tư trang mặc áo đẹp, Nơi đó người khởi tham Dùng thuốc hay phân tích.
Với cảnh chỉ mình ái Không chấp nhận người xem, Nhiều trùng rúc tử thi Khiến quán trừ niệm ác.
Thịt tử thitiêu tán Chỉ còn lại răng, xương, Nơi răng sinh tham trước Khiến quán tướng răng xương.
Nếu thấy người mới chết Thức đi còn thân tàn Chúng sinhtham trước lạc Khiến trừ tham kiều diễm.
Phân tiểu và dớt dãi Tụ hợp chung thành thân, Ba mươi hai loại vật Da bọc gọi là người.
Lông tóc và móng, răng Gan, ruột các tướng nhân Trong trống ba trăm xương, Ràng quấn chín trăm xương;
Chín lỗ chảy bất tịnh Bẩn tưởi khó trình bày, Quán kỹ thật đáng ghét, Người trí chẳng nên gần.
Đã quán thân người nữ Cũng lại xét thân mình Nơi đó nhân tham nhiễm Theo lý thường buộc niệm.
Không thoát ngục ba cõi Hoặc do tâm dục nhiễm Cho nên người trí sáng Cực khéo nghĩ sự này.
Trải nhiều khổ địa ngục May mắn được thân người Há phóng túng cuồng tâm Không tu hạnh thù thắng.
Tham dâm có nhiều loại Tùy sinh ác chẳng đồng, Một quán đều trừ được Chính là quán xương trắng.
Chạm sắc hình kiều diễm Áo quần sinhnhiễm trước, Thuốc nào trừ được đây? Không qua quán xương trắng.
Trước nơi ngón chân cái Định tâm duyên tạo sưng Vỡ ra đã chảy mủ Thịt đều tùy rơi rụng.
Liền quán hình xương ngón sắc như chi, câu trắng, Vết sưng đã lớn dần Da thịt đều trừ sạch.
Lần lượt quán như thế Thịt thân đều trừ hết, Chính niệmthắng giải thành Chỉ quán khớp xương ấy.
Nếu còn lại ít thịt Bèn gọi là loạn ý, Huống lại phóng tâm khỉ Rong ruổi cầu các cảnh.
Thời gian lâu buộc tưởng Tự biết khéo trụ được, Tiếp dần đến người khác Quán chung là đốt xương.
Dần rộng đến bờ biển Trong đó đầy xương trắng, Định này đã thành rồi Bỏ rộng lại khiến hẹp.
Khi lược bỏ từ ngoài Đến chỉ xương thân mình, Lại quán xương ngón chân Là thứ tự tâm định.
Hoặc lại bỏ từng miếng Cực đến nơi xương đảnh, Nên biết tâm cuối cùng Nhiếp giữa mi khiến trụ.
Nếu tu tập như vậy Thường sinh thắng Phạm cung, Chẳng đọa lạc ba đường Được sinh trời Ngũ Tịnh.
Tâm nhân gian thiện tán Trở lại dòng sinh tử, Người trí tu tâm định Như lửa cháy áo thân.
Liền bỏ được các duyên Nên ở nơi rừng vắng, Chớ khiến vô thường bức Chết uổng trong tán tâm.
Dùng Bát-nhã tịnh tâm Rốt được quả khả ái, Nếu không mong hậu hữu Với thắng đạo nên tu.
Cạo tóc đắp Ca-sa Phải nên tu Thánh đạo, Tự nói các tạp sự Sẽ là nhân sinh tử.
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc già phạm ở thành Vương xá, trong đỉnh Thứu phong, cùng chúng đại tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị đều đến tụ tập.
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lượcca ngợicông đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Nithành đạo), và đã tồn tạiliên tục, phát triển không ngừng trên ...
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quảchi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúc ở thế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
Xin dâng hết lên Tam Bảochứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.