Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Pháp Cú Bắc Truyền

23 Tháng Năm 201807:24(Xem: 5023)
Kinh Pháp Cú Bắc Truyền
KINH PHÁP CÚ BẮC TRUYỀN 

Thích Nguyên Hùng

Kinh Pháp Cú Bắc Truyền


Pháp cú thuộc thể loại gatha, tức là những bài chỉnh cú, bài kệ, bài thơ rất dễ ghi nhớ. Vì “gặp việc tùy nghi diễn nói”, nên văn phong rất mộc mạc, chất phác và thân thiết như những lời nói giản dị hàng ngày chuyện cơm ăn áo mặc.

Tổng quan

Nói kinh Pháp cú Bắc truyền, được kết tập bằng tiếng Phạn, là để phân biệt với kinh Pháp cú Nam truyền, được kết tập bằng tiếng Pāli. 

Pháp cú Bắc truyền khi truyền đến Trung Hoa, được dịch ra tiếng Hán,lúc đầu có nhiều tên gọi khác nhau, như Pháp cú tập kinh, Pháp cú tập,Pháp cú lục, Đàm-bát kinh, Đàm-bát kệ… Công bằng mà nói, Pháp cúkhông phải là một bộ kinh, mà là một bộ tuyển tập những bài kệ do Đức Phật nói ra, nằm rải rác trong các kinh A-hàm và những kinh khác, và cả những bài kệ riêng lẻ. Trong bài Tựa kinh Pháp cúcư sĩ Chiêm Khiêm viết: “Những bài kệ này do Thế Tôngặp việc tùy nghi diễn thuyết chứ không phải nói ra trong một lúc. Mỗi bài kệ đều có mở đầu, kết thúc và nằm rải rác trong các kinh (…) Về sau, Sa-môn của năm bộ phái tự sao chép những bài kệ 4 câu hoặc 6 câu trong các kinh, dựa trên nội dung từng bài kệ đó rồi đặt tên phẩm. So với mười hai phần giáo, nội dung của các bài kệ này quá ngắn gọn, không có tên kinh thỏa đáng, nên gọi chung là Pháp cú”. Đoạn văn ngắn này cho thấy những bài kệ Pháp cú đã được định hình và hoàn bị ngay khi Phật còn tại thế, được các Tỷ-kheo đọc thuộc lòng, trì tụng và trao truyền cho nhau. 

Pháp cú thuộc thể loại gatha, tức là những bài chỉnh cú, bài kệ, bài thơ rất dễ ghi nhớ. Vì “gặp việc tùy nghidiễn nói”, nên văn phong rất mộc mạc, chất phác và thân thiết như những lời nói giản dị hàng ngày chuyện cơm ăn áo mặc. Có thể nói, Pháp cú thuộc thể loại Thật lục, hay Ngôn hành lục, ghi chép sự thật xảy ra khi Phật còn tại thế, đó là những lời sách tấn, khích lệ và đôi khi có cả những lời quở trách các học trò; hay những định nghĩa về pháp yếu, về Niết-bàn… Do đó, Chi Khiêm cho rằng, “Người xuất gia ở Thiên Trúcnếu không học Pháp cú là đi sai trình tự tu họcPháp cú chính là nấc thang cần thiết giúp những ngườixuất gia tu tập thâm nhập vào pháp tạng sâu xa, khéo khai mở cho kẻ mông muội, biện rõ chánh tà, khuyến hóa người học trở về sống với chính mình. Có thể nói Pháp cú là nghĩa lý nhiệm mầu, cốt yếu tột bậc.” 

Lịch sử truyền dịch 

Hiện nay, Pháp cú Hán tạng có bốn bộ, Pāli tạng có một bộ, Tây Tạng có hai bộ, và gần đây người ta mới phát hiện một bản tiếng Phạn, thuộc ngôn ngữ vương quốc Kiền-đà-la (Gandhāra).1 

Tây nguyên năm 1892, tại vùng phụ cận Khostan, người ta phát hiện một văn bản cổ viết bằng mẫu tự Kharosti, một thứ phương ngữ Prakrit đặc trưng vùng Tây bắc Ấn. Các học giả cận đại đã xác định đó là thứ ngôn ngữ Gandhari, một loại ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi hồi thế kỷ thứ II TL. 

Trong bài Tựa kinh Pháp cúChi Khiêm viết: “Pháp cú cũng có mấy bộ khác nhau, có bộ 900 bài kệ, có bộ 700 bài kệ, có bộ 500 bài kệ.” Lại viết: “Gần đây, Cát-thị lại truyền sang một bộ gồm 700 bài kệ.” Rất tiếc,đến nay chúng tôi vẫn chưa khảo cứu được Cát-thị là ai hay là bộ phái nào! Theo suy đoán của Ấn Thuận, thì căn cứ ngữ âm cát-thị có thể là bộ phái Ca-diếp-di, tức Ẩm quang bộ (Kāśyapīya). Đây là chi nhánh của bộ Phân biệt thuyết (Vibhajya-vādin) và có liên hệ với học phái Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāsti-vādin).2 

1- Pháp cú Hán dịch 

Như đã nói, Pháp cú Hán tạng có bốn bộ, đó là kinh Pháp cúkinh Pháp cú thí dụ, kinh Xuất diệu và Pháp tập yếu tụng, lần lượt mang số hiệu từ 210-213, tập 4, bộ Bản duyên, quyển hạ, thuộc Đại tạng kinh Đại chính tân tu. 

Kinh Pháp cú, ĐTK/ĐCTT, T04, n°. 210, Tôn giả Pháp Cứu (Dharmatrāta) tuyển soạn. Đây là bản Pháp cú Hán dịch đầu tiên, do Sa-môn Duy-kì-nan người Thiên Trúc dịch vào khoảng 225 Tây lịch, đời Ngô Tôn Quyền, với sự góp sức của cư sĩ Chi Khiêm (sau đây sẽ gọi là bản Ngô). Duy-kì-nan đến Đông Ngô vào năm Hoàng Vũ thứ 3, tức 224 Tây lịch, đem theo bản Pháp cú 500 kệ tụng, nhưng hai thầy trò chỉ dịch được 495 kệ tụng, 26 phẩm, bởi vì, “Trong khi dịch, có chỗ không hiểu nên để khuyết, không truyền, vì vậycó nhiều chỗ thiếu sót, nhiều đoạn không dịch.”3 Sau đó, có đồng đạo của Duy-kì-nan là Sa-môn Trúc Tương Diễm đến, Chi Khiêm đem hỏi, lại cùng nhau hợp dịch thành bản hiện hành, gồm 39 phẩm, 752 bài kệ

Theo khảo cứu của Ấn Thuận và nhiều nhà nghiên cứu Phật học khác, thì bản Pháp cú mà Duy-kì-nanmang theo, gồm 26 phẩm, 500 kệ tụng là văn bản của bộ phái Đồng diệp bộ, tức là Pháp cú Nam truyền, tiếng Pāli hiện nay, hoặc chí ít cũng có thể khẳng định đó là văn bản được truyền bởi Hóa địa bộ, hoặcPháp tạng bộ.4Còn bản Pháp cú hiện nay gồm 39 phẩm, trong đó có 13 phẩm mà Trúc Tương Diễm thêm vào sau, căn cứ vào tên phẩm mà suy luận thì có thể thấy đây là văn bản của bộ phái Thuyết nhất thiết hữu bộ, hoặc có quan hệ với Thuyết nhất thiết hữu bộ.5 

Kinh Pháp cú thí dụ, ĐTK/ĐCTT, T04, n°. 211, do Sa-môn Pháp CựPháp Vị dịch Phạn Hán đời nhà Tấn, khoảng 305 Tây lịch, gồm 4 quyển, 39 phẩm (sau đây sẽ gọi là bản Tấn). Bản này giải thích ý nghĩa và dẫn dắt những câu chuyện nói Pháp cú, nhưng không đầy đủ, chỉ có 197 kệ tụng. Có khả năng dịch giả đã lược dịch, hoặc sở hữu bản không đầy đủ, bởi số phẩm và nội dung kệ tụng tương đồng với bản Ngô, tức có khả năng cùng lưu xuất từ một bộ phái

- Kinh Xuất diệu, ĐTK/ĐCTT, T04, n°. 212, do Sa-môn Tăng-già-bạt-trừng (Saṃghabhūti), người Kế Tân, đọc bản Phạn, Trúc Phật Niệm dịch Hán, vào đời Diêu Tần, khoảng 398-399 Tây lịch, gồm 30 quyển, 34 phẩm (sau đây gọi là bản Tần). Xuất diệu hay Thí dụ đều được dịch nghĩa từ Phạn ngữ Avadāna. Trong bài tựa kinh Xuất diệu, Tăng Duệ viết: “Từ Xuất diệu, trước đây dịch là Thí dụ, tức là một trong 12 thể tài kinh điển.”6 

Hầu hết phần kệ tụng trong Xuất diệu đều giống Pháp cú mà Duy-kì-nan đã dịch vào đời Ngô, còn phầnnhân duyêncâu chuyện để giải thích kệ tụng thì tương đối giống Pháp cú thí dụ do Pháp Cự và Pháp vịdịch vào đời Tấn. 
Căn cứ luận Đại-tì-bà-sa, quyển 1, luận Câu-xá, quyển 2, Sử Phật giáo Ấn Độ, thì tác giả phần kệ tụngtrong kinh Xuất diệu là Tôn giả Pháp CứuTăng Duệ, trong bài tựa kinh Xuất diệu đã căn cứ vào thuyết này. Tuy nhiên, theo luận Đại trí độ, quyển 33, thì những kệ tụng pháp cú này “do các đệ tử tập hợp lại sau khi Phật nhập Niết-bàn.” Còn về phần văn trường hàng giải thích và dẫn chuyện thì không rõ tác giả

Kinh Pháp tập yếu tụng, ĐTK/ĐCTT, T04, n°. 213, Tôn giả Pháp Cứu tập, Sa-môn Thiên Tức Tai, ngườiThiên Trúc, thuộc Minh giáo, phụng chiếu dịch đời Tống Thái Tông, khoảng 990 Tây lịch (sau đây gọi là bản Tống). Pháp tập yếu tụng còn gọi là Pháp ưu-đà-na, thuần túy kệ tụng, gồm 4 quyển, 33 phẩm. Theo luận Đại tì-bà-sa, quyển 1, thì “Hết thảy kệ tụng udana đều là lời Phật thuyếtĐức Phật Thế Tôn đi giáo khắp nơi, gặp nhiều hạng hữu tìnhtùy nghi tuyên thuyết. Sau khi Đức Phật nhập diệtĐại đức Pháp Cứu lần lượt được nghe tụng tập, ngài bèn gom góp lại, đặt thành tên phẩm. Những bài tụng có ý nghĩa vô thườngthì gom thành một phẩm vô thườngcho đến những bài tụng liên hệ đến phạm chí thì gom thành một phẩmphạm chí.”7 Điều này cho thấy Pháp tập yếu tụng này được truyền bởi bộ phái Thuyết nhất thiết hữu bộ và do Đại đức Pháp Cứu sưu tập. 

Khảo cứu của Ấn Thuận chỉ ra rằng, kinh Pháp cú là do Tôn giả Pháp Cứu biên tập lại chứ không phải là người biên soạn đầu tiên. Và, trong bài Tựa kinh Pháp cúChi Khiêm có nói tới bản Pháp cú 900 bài kệ, thì tụng bản đó chắc chắn là của bộ phái Nhất thiết hữu bộ truyền. Tụng bản của bộ phái Thuyết nhất thiết hữu bộ là tụng bản tiếng Phạn và hiện nay vẫn còn.8 

2- Pháp cú Việt dịch 

Kinh Pháp cú được dịch sang tiếng Việt đầu tiên là Pháp cú Nam truyền. Bản dịch sớm nhất là của nhị vị cố Hòa thượng Thích Thiện Siêu, (năm 1959, dựa trên bản dịch Hán văn của Pháp sư Liễu Tham) và cốHòa thượng Thích Minh Châu, (năm 1969, dịch từ nguyên bản Pāli). Riêng bốn bản Pháp cú Hán truyền chỉ mới được dịch trong những năm cuối của thế kỷ XX. Cụ thể, cả bốn bản Pháp cú Hán truyền nói riêng cũng như toàn bộ Đại tạng kinh nói chung đã được Ban phiên dịch Hán tạng do cố Hòa thượng Thích Tịnh Hạnh chủ trương dịch sang tiếng Việt và in thành bộ Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinhấn hành năm 2000; trong đó, bốn bản kinh Pháp cú được in trong Bộ Bản duyên VII, trang 587. 

Bên cạnh đó, Hòa thượng Thích Trí Quang dịch kinh Pháp cú bản Ngô sang tản văn. Bản dịch này Hòa thượng có đối chiếu so sánh với Pháp cú Nam truyền, đồng thời đưa ra nhận địnhHòa thượng Thích Nhất Hạnh cũng dịch kinh Pháp cú bản Ngô thành Kết một tràng hoa theo lối tản văn, cư sĩ Nguyên Định viết thành thể kệ, hiện phổ biến trên trang nhà langmai.org. Kinh Pháp cú Bắc truyền lưu hành phổ biến hiện nay là bản dịch của thầy Thích Đồng Ngộ (dịch quyển thượng) và Thích Nguyên Hùng (dịch quyển hạ), do Nhà xuất bản Tôn Giáo ấn hành năm 2016. Bản này tương đối sát bản Hán mà rõ ràngtrong sáng và vần điệu trong tiếng Việt. 

Nhận xét 

Như đã nói, trong bài tựa bản dịch kinh Pháp cú đời Ngô, cư sĩ Chi Khiêm viết: “Pháp cú cũng có mấy bộ khác nhau, có bộ gồm 900 bài kệ, có bộ 700 bài kệ, có bộ 500 bài kệ”, điều này dường như cho thấy Pháp cú vốn có ba bản Quảng, Trung và Lược. Theo khảo cứu của Lã Trừng thì hiện còn tàn bản Phạn, Pāli và Tạng ngữ của cả ba bản Quảng, Trung và Lược ấy. 

Pháp cú Pāli có 26 phẩm, 423 bài kệ, tức là bản Lược. Pháp cú bản Ngô, Pháp cú thí dụ bản Tấn, gồm 39 phẩm, 752 bài kệ tụng, tức là bản Trung. Kinh Xuất diệu dịch đời nhà Tần (chủ yếu giải thích Pháp cú hoặc nội hàm kinh văn), kinh Pháp tập yếu tụng dịch đời Bắc Tống và kinh Pháp cú bản dịch Tạng ngữ gồm từ 900 đến 1500 kệ tụng, 33 phẩm, tức là bản Quảng. 

Trong ba bản ấy, thì bản Pāli và bản Ngô là cổ xưa nhất và có nhiều tương đồng nhất, dù bản Ngô có nhiều hơn bản Pāli đến 13 phẩm. Còn hai bản Tần và Tống, về mặt tên các phẩm thì đa phần giống bản Ngô, Tấn, nhưng thứ tự và nội dung thì thay đổi khá nhiều, điều này cho thấy đây là bản cải biên từ nguyên tác. 

Kinh Pháp cú Pāli không đề tên tác giảPháp cú Bắc truyền bản Ngô đề tác giả là Tôn giả Pháp Cứu biên soạn. Điều này cho thấy kinh Pháp cú trước sau có hiệu đính theo dòng lịch sử truyền thừa. Những bảnhiệu đính về sau nữa lại càng có nhiều thay đổi, không phải chỉ một lần, do đó tính chất của bản kinh cũng thay đổi ít nhiều. Chẳng hạn, ngay tên gọi, bản Lược và bản Trung thì gọi là Pháp cú, nhưng các bản Quảng thì gọi là Thí dụ, Xuất diệu… Khi thay đổi tên tác phẩm chắc hẳn các nhà truyền dịch đã có chủ ýthay đổi nội dung cho phù hợp với bộ phái của mình! 

Nhưng, tựu trung, dù hình thức tổ chức kinh Pháp cú rất đơn giản nhưng lại chứa đựng nội dung rất sâu sắc, phản ánh toàn bộ giáo lý trọng yếu của Phật giáo, những lời giáo huấn đạo đức rất thực tếPháp cúnhư kết nối những hạt châu về luân lý đạo đức và chân lý tuyệt đối thành một chuỗi ngọc giá trịHay nóinhư Thiền sư Nhất HạnhPháp cú là một tràng hoa được xâu kết bởi những đóa hoa xinh đẹp nhất trong vườn hoa Chánh pháp

Thích Nguyên Hùng
__________________
(1) Ấn ThuậnNguyên thủy Phật giáo thánh điển chi tập thành, trang 811. 
(2) Ấn Thuận, sách đã dẫn. 
(3) Xuất tam tạng ký tập, quyển 7, ĐCTT/ĐTK, T55. 
(4) Ấn Thuận, Hoa vũ hương vân, trang 216. 
(5) Ấn ThuậnNguyên thủy Phật giáo thánh điển chi tập thành, trang 813. 
(6) ĐTK/ĐCTT, T4, p.609b. 
(7) Đại tì-bà-sa luận, quyển 1, ĐTK/ĐCTT, T27. 
(8) Ấn ThuậnNguyên thủy Phật giáo thánh điển chi tập thành, trang 815.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1186)
Kinh này nói về cái chết, vô thường, mất mát… Kinh này không nói về vô ngã, nhưng nói rằng phải xa lìa “cái của tôi,”
(Xem: 965)
Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định ...
(Xem: 1240)
Phật từ tướng bạch hào Phóng quang khắp thế giới Hội thượng Phật Bồ Tát Tán thán Phật Tỳ Lô
(Xem: 1607)
Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Girimānanda bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.
(Xem: 1699)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc già phạm ở thành Vương xá, trong đỉnh Thứu phong, cùng chúng đại tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị đều đến tụ tập.
(Xem: 1999)
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại tịnh xá Cấp cô độc, vườn Kỳ-đà, gần thành Xá-vệ.
(Xem: 2013)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến. Chỉ có pháp hiện tại, Tuệ quán chính ở đây,
(Xem: 3702)
Thiền quán về Duyên khởi Tính không và giai đoạn hậu thiền với mục đích làm tăng trưởng những phẩm hạnh cao quý.
(Xem: 9047)
Nghi Lễ Hàng Ngày NS Thích Nữ Giới Hương biên soạn
(Xem: 30269)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 4373)
Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở chùa Kỳ Viên thuộc thành Xá Vệ do Cấp Cô Độc phát tâm hiến cúng.
(Xem: 12129)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11450)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12480)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 9668)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 10580)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10331)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10535)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 16009)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 6983)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 16325)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13686)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16328)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11885)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 16046)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14213)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16049)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12579)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11903)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11637)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15518)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 13875)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11860)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 14786)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 12969)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14302)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20448)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13048)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10822)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 14182)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20076)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 13792)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 14590)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11898)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15109)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 10925)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10337)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12304)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 14078)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 16613)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11438)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 11216)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 11905)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 51630)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15286)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13834)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11337)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13059)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12645)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13074)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant