Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 24 - Diệu Âm Bồ tát vãng lai

19 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 10051)
Phẩm 24 - Diệu Âm Bồ tát vãng lai

PHÁP HOA KINH THÂM NGHĨA ĐỀ CƯƠNG
Hoà thượng Thích Từ Thông
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2001

Phẩm 24: DIỆU-ÂM BỒ-TÁT VÃNG LAI

Lúc bấy giờ, đức Phật Thích Ca, từ nơi nhục kế phóng một đạo hào quang, rồi từ giữa đôi lông mày cũng phóng một đạo hào quang rực rỡ khắp soi một trăm tám muôn ức na-do-tha hằng sa thế giới chư Phật ở phương Đông. Xa hơn số thế giới này, có một thế giới tên là Tịnh Quanh Trang Nghiêm. Tại nước ấy, có Phật hiệuTinh Hoa Tú Vương Trí đang thuyết pháp cho vô lượng vô biên Bồ-tát cung kính vây quanh nghe. Hào quang lông mày của đức Phật Thích Ca soi khắp nước Tịnh Quang.

Bây giờ trong nước Nhất Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm có một Bồ-tát tên là Diệu Âm, từ lâu đã trồng cội đức, cúng dường, gần gũi vô lượng chư Phật, cho nên đã thành tựu trí tuệ rất sâu và được nhiều thứ tam muội là: diệu tràng, pháp hoa, tịnh đức, túc vương trí, vô duyên, trí ẩn, giải nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn, tập nhất thế công đức, thanh tịnh, thần thông du hí, huệ cự, trang nghiêm vương, tịnh quang minh, tịnh tạng, bất cộng và nhật triền. Bồ-tát Diệu Âm được trăm ngàn muôn ức hằng hà sa đại tam muội như thế. Thân tắm trong ánh sáng đức Phật Thích Ca, Bồ-tát Diệu Âm liền bạch với Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí: “Thế Tôn ! Tôi sẽ sang thế giới Ta-bà, lễ bái, gần gũi cúng dường Phật Thích Ca cùng ra mắt các Bồ-tát Văn Thù, Dược Vương, Dũng Thí, Tú Hoa Vương, Thượng Hành Ý, Trang Nghiêm Vương và Dược Thượng”.

Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí nói với Bồ-tát Diệu Âm: “Ngươi chẳng nên xem rẻ nước kia (thế giới Ta-bà) mà tưởng là thấp kém. Này thiện nam tử, thế giới Ta-bà cao thấp không bằng thẳng, dẫy đầy núi đất, núi đá và những nhơ xấu, thân Phật thấp nhỏ, hình các Bồ-tát cũng nhỏ như vậy, còn thân người thì cao đến 42.000 do-tuần, thân ta đến 680.000 vạn do-tuần; thân ngươi mà còn đoan chánh bậc nhất. Như thế, được trăm ngàn muôn phước làm cho hết sức sáng rỡ. Vì vậy sang đến cõi Ta-bà, chớ nên xem khinh đừng sanh lòng nghĩ tưởng rằng Phật, Bồ-tát cùng nhân dân cõi nước này là thấp thỏi yếu đuối.

Bồ-tát Diệu Âm bạch: Thế Tôn ! Con nay qua cõi Ta-bà là do sức thần Như Lai, do thần thông du-hí của Như Lai, do công đức trí tuệ, trang nghiêm của Như Lai.

Lúc ấy, Bồ-tát Diệu Âm không rời khỏi chỗ ngồi, thân chẳng lay động, nhập chánh định, dùng sức mạnh của chánh định, tại núi Kỳ-xà-quật, cách chỗ Bồ-tát ngồi không xa, hoá ra 84.000 hoa sen báu, cộng bằng vàng diêm-phù-đàn, cành bằng bạc, nguỵ bằng kim cương và đài bằng báu.

Bồ-tát Văn Thù thấy vậy mới bạch với đức Thích Ca: “Thế Tôn ! Do đâu mà có điềm tốt này?” Đức Phật đáp: Đó là điềm Bồ-tát Diệu Âm, từ nước của Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí muốn cùng 84.000 Bồ-tát đến cõi Ta-bà, để cúng dường, gần gũi, lễ lạy ta và cũng muốn cúng dường nghe kinh Pháp Hoa.

Bồ-tát Văn Thù bạch: Thế Tôn ! Bồ-tát đó trồng cội lành gì, tu công đức gì mà được sức đại thần thông như thế? Tu tam muội gì? Cúi xin Thế Tôn nói cho chúng con biết tên tam-muội đó vì chúng con muốn tu tam-muội ấy để thấy được sắc tướngoai nghi tiến, dừng tự tại của Bồ-tát Diệu Âm. Khi Bồ-tát tới, cúi xin Thế Tôn dùng sức thần thông làm cho chúng con thấy được Bồ-tát. Đức Thích Ca đáp: Đức Đa Bảo Như Lai đã diệt độ từ lâu, sẽ vì các ngươi mà hiện bày thân tướng của Bồ-tát Diệu Âm.

Tức thời Phật Đa Bảo bảo Bồ-tát Diệu Âm: “ Thiện nam tử ! Hãy đến đây, Văn Thù muốn thấy thân của người đấy”.

Bấy giờ Bồ-tát Diệu Âm, đang ẩn mặt ở nước kia, bèn cùng 84.000 Bồ-tát đồng qua cõi Ta-bà. Trải qua các nước, đâu đâu đất cũng chuyển động 6 cách, hoa sen bảy báu rưới như mưa, trăm ngàn nhạc trời chẳng trổi tự kêu, mắt của Bồ-tát như cánh hoa sen xanh rộng lớn, diện mạo tốt đẹp hơn trăm ngàn muôn mặt trăng họp lại , thân sắc vàng ròng trang nghiêm bằng vô lượng công đức, oai đức rất thạnh, ánh sáng chói rực, đầy đủ các tướng như thân bền chắc của Na-la-diên.

Bồ-tát Diệu Âm vào đài bảy báu, bay lên hư không cách đất bảy cây đa-la và cùng chư Bồ-tát vây quanh, đến núi Kỳ-xà-quật ở cõi Ta-bà. Tới nơi rồi, Bồ-tát xuống đài, lấy chuỗi ngọc giá trị trăm ngàn cúng dường đức Phật Thích Ca mà bạch rằng: Thế Tôn! Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí có lời hỏi thăm Thế Tôn ít bệnh, ít buồn, đi đứng thơ-thới, và hoạt động trong sự an-lạc không? Bốn đại có điều hoà chăng? Việc đời nhẫn được chăng? Chúng sanh dễ độ chăng? Không có nhiều tham dục, giận hờn, ngu si, ganh ghét, bỏn xẻn, kiêu mạn, phải vậy chăng? Không còn điều bất hiếu với cha mẹ, chẳng kính Sa-môn, tà kiến, tâm chẳng lành, năng hàng phục các ma oán chăng? Đa Bảo Như Lai diệt độ từ lâu và trong tháp bảy báu, có đến nghe pháp chăng? Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí lại dặn tôi hỏi thăm Đa Bảo Như Laian ổn, ít buồn hay chịu đựng và ở lâu được chăng? Thế Tôn! Tôi muốn thấy thân Phật Đa Bảo, cúi xin Thế Tôn chỉ cho tôi được thấy.

Lúc đó, đức Phật Thích Ca nói với Phật Đa Bảo: Bồ-tát Diệu Âm muốn ra mắt Ngài. Đức Phật Đa Bảo liền nói với Bồ-tát Diệu Âm: Hay lắm! Hay lắm ! Vì cúng dường Phật Thích Ca, cùng nghe kinh Pháp Hoa và thấy Văn Thù… ngươi đến cõi nầy!.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát Hoa Đức bạch Phật Thích Ca: Thế Tôn! Bồ-tát Diệu Âm trồng cội lành gì, tu công đức nào mà có sức thần thông như thế?

Đức Phật đáp: Thuở quá khứ có Phật hịêu Vân Lôi Âm Vương, nước tên là Hiện Nhất Thiết Thế Gian, kiếp tên Hỉ Kiến Suốt 12.000 năm, Bồ-tát Diệu Âm dùng 10.000 thứ kỹ nhạc cúng dường Phật Vân Lôi Âm cúng dâng 84.000 bát bảy báu. Do nhân duyên quả báo đó mà nay sanh tại nước của Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí và có sức thần như thế. Này Hoa Đức, ngươi nghĩ sao? Diệu Âm Bồ-tát thuở xưa đó, chính nay là Bồ-tát Diệu Âm đây. Bồ-tát Diệu Âm này đã từng cúng dường, gần gũi, vô lượng Phật, từ lâu vun trồng công đức, lại gặp hằng hà sa Phật. Này Hoa Đức, ngươi chỉ thấy thân hình của Diệu Âm ở tại đây, chẳng dè Bồ-tát ấy hiện các thứ thân hình, nơi nơi đều vì chúng sanh mà nói kinh điển này. Diệu Âmthể hiện thân Phạm Vương, Đế Thích, Tự-tại-thiên, Đại-tự-tại-thiên, Thiên-đại-tướng-quân, Tỳ-sa-môn-thiên-vương, Chuyển-luân-thánh-vương, Tiểu-vương, Trưởng-giả, Cư-sĩ, Tể-quan, Bà-la-môn, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hoặc hiện thân vợ tể quan, hoặc hiện thân trai, gái, trời, rồng, dạ-xoa… người, cùng không phải loài người… mà nói kinh nầy. Bao nhiêu địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và ở đâu có tai nạn, Diệu Âm đều có khả năng cứu giúp, thậm chí đến trong hậu cung vua chúa, Bồ-tát cũng biến làm thân người nữ mà nói kinh nầy.

Hoa Đức, Bồ-tát Diệu Âm này hay cứu hộ các chúng sanh trong cõi Ta-bà, vì chúng sanh mà nói kinh Pháp Hoa, tuy vận dụng thần thông biến hoá như thế mà trí tuệ sáng soi cõi Ta-bà, khiến tất cả chúng sanh, mỗi mỗi đều được sự hiểu biết của mình, còn trong hằng hà sa thế giới mười phương cũng đều được như vậy. Nếu phải dùng hình Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát hay Phật để độ thoát chúng sanh thì Diệu Âm liền hiện ra hình ấy mà nói pháp. Thậm chí phải diệt độ để độ thoát chúng sanh thì cũng thị hiện diệt độ.

Bồ-tát Hoa Đức bạch Phật: Thế Tôn ! Bồ-tát Diệu Âm ở trong tam muội nào có thể biến hiện ở các nơi và trong nhiều thân hình như thế? Phật đáp: Tam muội đó gọi là: Hiện nhất thiết sắc thân.

Lúc nói phẩm Diệu Âm Bồ-tát Vãng Lai này, 84.000 Bồ-tát cùng đi với Bồ-tát Diệu Âm đều được tam muội Hiện Nhất Thiết Sắc Thân.

Khi Bồ-tát Diệu Âm cúng dường đức Phật Thích Ca và tháp Đa Bảo xong rồi trở về nước mình, các nước của Bồ-tát trải qua đều chấn động, trên các mưa hoa sen báu, nhạc trời tự trổi như lúc đi. Về đến nước rồi, Bồ-tát cùng 84.000 Bồ-tát vây quanh đến trước Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí bạch rằng: Thế Tôn! Con đến cõi Ta-bà làm lợi ích cho chúng sanh, đã ra mắt lễ lạy, cúng dường đức Phật Thích Ca, ra mắt tháp Phật Đa Bảo lại gặp các Bồ-tát Văn Thù, Dược Vương, Dũng Thí và cũng đã làm cho 84.000 Bồ-tát này được tam muội Hiện nhất thiết sắc thân.

Lúc nói phẩm Diệu Âm Bồ-tát vãng lai này 42.000 người cõi nhân thiên được vô sanh pháp nhẫn, còn Bồ-tát Hoa Đức được Pháp Hoa tam muội.

THÂM NGHĨA

Diệu Âm là tiếng mầu nhiệm. Diệu Âm Bồ-tát được biểu trưng cho tiếng mầu nhiệm của chân tâm thanh tịnh. Kinh nói Diệu Âm Bồ-tát ở nước Nhất thiết tịnh quang trang nghiêm có nghĩa là Diệu Âm Bồ-tát chỉ có mặt ở thế giới “Nhất thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm”. Cũng như tiếng lòng mầu nhiệm chỉ hiện hữutâm hồn trong sángthanh tịnh, không có các phiền não cấu uế nhiễm ô.

Muốn tiếp cận, gặp gỡ liên hệ Diệu Âm, phải nhờ ánh sáng Phật soi rọi mới thấy và liên hệ được. Cũng như muốn “nghe” được tiếng mầu nhiệm của chân tâm thanh tịnh, phải có giác tri. Dùng ánh sáng trí tuệ giác soi rọi vào tâm (hồi quang phản chiếu) mới “nghe” được tiếng mầu nhiệm của lòng trong sạch của mình. Nếu không dùng ánh sáng trí tuệ hồi quang phản chiếu, thì tiếng mầu nhiệm của tâm dù có, cũng như không, vì người ta sẽ không bao giờ “ nghe” được. Diệu Âm dù sẵn ở thế giới Nhất Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm nhưng nếu không có “ánh sáng Phật” soi rọi thì Bồ-tát Diệu Âm không có điều kiện liên hệ tiếp cận với chúng sanhthế giới Ta-bà và Diệu Âm Bồ-tát có cũng như không có.

Diệu Âm Bồ-tát được nhiều tam muội, xét cho tột lý thì đó là chuyện tất nhiên. Bởi như ta đã hiểu, Diệu Âm Bồ-tát là biểu trưng cho tiếng mầu nhiệm của chân tâm thanh tịnh thì còn có thứ tam muội nào ngoài chân tâm thanh tịnh ấy? Cho nên kinh nói: “Bồ-tát được trăm nghìn muôn ức hằng hà sa các đại tam muội”.

Khi chưa có ánh sáng Phật soi đến thế giới Nhất Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm, thì hai thế giới cách xa tám trăm muôn ức na-do-tha hằng hà sa cõi Phật. Nhưng khi Phật Thích Ca dùng “ánh sáng Phật” soi rọi thì thế giới Ta-bà và thế giới Nhất Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm in tuồng như có một, chẳng còn cách trở bởi cự ly, cho nên Diệu Âm Bồ-tát chỉ trong khoảnh khắc đã tạn mặt với chúng sanh, Bồ-tát và Phật ở cõi Ta-bà.

Tiếng mầu nhiệm của chân tâm rất thâm sâu, xa thẳm đến nỗi dường như không có, nếu chúng sanh mê. Nhưng nó có thể đến rất nhanh, trong khoảnh khắc với ta, nếu ta có giác chiếu.

Diệu Âmthân tướng trang nghiêm đẹp đẽ, nhưng không nên sanh tưởng hạ liệt với Phật và Bồ-tát ở thế giới Ta-bà. Lời Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí dặn như thế. Bởi vì Phật, Phật đạo đồng. Bồ-tát phải hiểu như thế, mọi đệ tử Phật phải hiểu như thế. Vả lại, Diệu Âm qua cõi Ta-bà là do sức thần Như Lai, nếu không có sức thần Như Lai thì Diệu Âm cũng không có khả năng đến. Chính Bồ-tát Diệu Âm đã hiểu như thế và sự thật là như thế. Bởi vì, nếu không có “giác tâm” hồi quang phản chiếu thì tiếng lòng mầu nhiệm không có cơ hội hiện ra.

Diệu Âm sắp đến cõi Ta-bà, bấy giờ cõi Ta-bà trở thành đẹp đẽ. 84.000 hoa sen báu mọc lên: cọng, cánh, nhụy, gương hạt toàn bằng vàng bạc, kim cương, chân-thúc-ca, các báu hoà hợp thành, để đón mời Bồ-tát Diệu Âm và 84.000 Bồ-tát tuỳ tùng sắp đến. Trên đường ngang qua, các cõi nước cũng đều có hiện tượng đẹp: Nhạc trời không trổi tự kêu, hoa sen báu tự rơi rải cúng dường Đại-địa (Tâm Địa) rung động sáu cách…

Tiếng lòng mầu nhiệm đến, thì cõi lòng ta sẽ có hiện tượng hân-hoan, đẹp đẽ, khinh an, thanh tịnh. Các tạp tưởng ô trược ẩn đi, những gì quý báu trong sạch, trang nghiêm, an lành sẽ đến ở lòng ta.

Phật Thích Ca biểu trưng “thỉ giác”

Phật Đa Bảo biểu trưng “bổn giác”

Phải vận dụng cả thỉ giác và bản giác mới có thể tận mặt, thấy được Diệu Âm. Chỉ có thỉ giác thôi, chưa đủ điều kiện tương kiến. Cho nên, Phật Thích Ca phải “mời” Phật Đa Bảo hiển bày thân tướng “ Diệu Âm” cho Bồ-tát Văn Thùđại chúng Pháp Hoa hải hội thấy. Sự việc đó nhằm dạy cho Phật tử phải vận dụng bản giác và thỉ giác của mình, khi muốn tận mặt Diệu Âm, muốn “nghe” Tiếng lòng mầu nhiệm.

Cũng như chư Bồ-tát “Tùng Địa Dũng Xuất” ở phẩm thứ 15, qua nghi lễ tương kiến thông thường, Bồ-tát Diệu Âm liền xin Phật Thích Ca được ra mắt Phật Đa Bảo. Vì bản giác, thỉ giác là mục tiêu đạt đến, là công tác hàng đầu đối với một Bồ-tát vậy.

Những lời vấn an Phật, của Bồ-tát Diệu Âm, được xem như tiếng nhắc nhở của Diệu Âm, của tiếng lòng mầu nhiệm.

· Ít bệnh, ít khổ, thơ-thới an vui với việc làm trong cuộc sống hàng ngày.

· Điều hoà tứ đại (điều thân)

· Nhẫn nhục việc đời (điều tâm)

· Chế ngự dễ dàng tư tưởng (chúng sanh dễ độ)

· Không nhiều tham dục, giận hờn, ngu si, ganh ghét, bỏn xẻn, kiêu mạn.

· Không bất hiếu với cha mẹ.

· Không phỉ báng sa-môn.

· Không tà kiến chẳng lành.

· Hàng phục các oán thù khuấy nhiễu của ma.

· Kích khởi tâm biếng lười hay siêng năng nghe pháp.

· Hãy sống an ổn, sống kham nhẫn, đừng đau khổ, đừng bất mãn, đừng trốn tránh sự thực ở cõi đời.

Đó là những điều phát xuất từ Dịêu Âm và phải được hiểu đó là Tiếng lòng mầu nhiệm của ta, nhắc nhở cho ta những điều “ngăn dứt” và những gì nên phát triển ở lòng mình.

Diệu Âm mà trở thành Diệu Âm Bồ-tát là do nhiều đời cúng dường Phật Vân lôi âm. Cũng như vàng mà được thành vàng ròng là do trước đó đã nấu lọc quặng vàng. Tiếng lòng mầu nhiệm đến với ta là trước đó ta đã phải nghe những tiếng lòng tạp tưởng mà ta đã chế ngự dứt bỏ hết đi rồi.

Diệu Âmthể hiện đủ các loại thân hình. Từ Phạm Vương, Đế Thích, Tự-tại-thiên, Đại-tự-tại-thiên, thân vua lớn, vua nhỏ, thân trưởng giả, cư sĩ, quan quyền, sa-môn, bà-la-môn… Thiên long bát bộ, nhơn, phi nhơn… cho đến hậu cung của vua, Diệu Âm cũng hiện làm thân người nữ mà nói kinh Pháp Hoa.

Với chủng tánh lớn hơn, những người xuất ly tam giới, nếu cần thân Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát, Phật để độ được, thì Diệu Âm cũng tuỳ căn cơhiện thân thuyết pháp hoá độ cho mỗi hạng người. Nếu cần sự hoá độ không lời, như đức nhẫn nhục, hạnh làm gương. Diệu Âm vẫn có khả năng tuỳ nghi độ thoát.

Nói trắng ra là ở giai cấp nào, người ở giới nào, căn tánh nào, cũng sẵn có Diệu Âm. Chỉ khác nhau ở chỗ có biết khai thác hay không, để cho Tiếng mầu nhiệm của cõi lòng được hiện thực hay ẩn tàng mãi mãi để rồi mai một trong tâm khảm, dầy đặc vô minh u tối !

Là Bồ-tát thì lấy sự độ sinh làm sự nghiệp. Cho nên cần có tam muội “Hiện Nhất Thiết Sắc Thân”. Phải “Hiện nhất thiết sắc thân” mới lợi ích chúng sanh nhiều được. Cho nên 84.000 Bồ-tát tuỳ tùng và vô lượng Bồ-tát vãng lai đều được “Hiện nhất thiết sắc thân” tam muội.

Không có tam muội “Hiện Nhất Thiết Sắc Thân” không hoàn thành vai trònhiệm vụ của một Bồ-tát được.

Diệu Âm Bồ-tát trở về thế giới Nhất thiết tịnh quang trang nghiêm. Thế là cõi Ta-bà không còn rực rỡ nữa. Những điềm lành, hiện tượng tốt không còn.

Ôi ! Nếu ta chẳng có khả năng cầm giữ Tiếng mầu nhiệm của chân tâm thanh tịnh ở với ta, thì cõi lòng của ta sẽ trở lại với bao nhiêu nhiệt não đau thương, với cuộc sống ê chề dục vọng…

Chúng ta hãy gắng mà “giữ mãi Diệu Âm” ở lại !
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10363)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12262)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15435)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16689)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12319)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11589)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14359)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24726)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10760)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12568)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10482)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12431)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11735)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12118)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13086)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11515)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17547)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21582)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10750)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19375)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12516)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26202)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14476)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13818)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16946)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17723)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13240)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12610)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11693)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11702)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20616)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19161)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19704)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18803)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15167)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15127)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14059)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15605)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14626)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15941)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12965)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18545)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15860)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11144)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53804)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13062)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16687)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15544)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 20042)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15639)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15473)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15262)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10482)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20474)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15624)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13128)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20357)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13374)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29105)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11795)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant