Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương hai

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9399)
Chương hai

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG HAI

9.- ÂM :

Thời Trưởng lão Tu Bồ Đề

NGHĨA :

 Khi ấy, Trưởng lão Tu Bồ Đề

 

Giải : Lý Văn Hội giải: Thời : là thuở ông Không Sanh (Tu Bồ Đề) khởi sự hỏi Phật.

Trưởng lão  là tuổi cao đức lớn.

 Tu Bồ Đề Giải Không (Rõ lý không).

Vương Nhựt Hưu giải: Trưởng lão là tuổi cao hơn hết trong hàng đại chúng.

Tăng Nhược Nột giải: Tu Bồ Đề: là  Không Sanh, Thiện Kiết, Giải Không, Thiện Hiện  Tôn giả.

Khi mới sanh ông ra, trong nhà đều trống không (Không Sanh).

Có thầy coi tướng đoán rằng: Tướng trẻ này rất lành, rất tốt (Thiện Kiết).

Sau ông tỏ đặng pháp "Không" (Giải Không).

Ứng với lời thầy tướng đoán khi trước (Thiện Hiện).

Tăng Liễu Tánh giải: Cái tánh  Tu Bồ Đề  người người đều có. Bằng người nào tỏ thấu cái tánh vắng lặng mới gọi "Giải Không"; trọn đặng tánh không, thiệt là Bồ Đề; mới gọi "Tu Bồ Đề"; cái tánh không ấy sanh ra muôn pháp, mới gọi "Không Sanh"; cái tánh không, tùy cơ duyên mà ứng hiện, lợi người lợi vật, mới gọi "Thiện Hiện"; muôn hạnh trọn lành, mới gọi "Thiện Kiết".

Tùy đức mà ứng hiện, nên mới cưỡng danh năm tên ấy.

10.-ÂM :

Tại đại chúng trung, tức tùng tọa khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước ([73]) địa, hiệp chưởng cung kỉnh nhi bạch Phật ngôn: "Hy hữu Thế Tôn!".

NGHĨA :

Ở> trong hàng đại chúng, liền đứng dậy đến nơi pháp tòa, trịch y nửa thân bên vai hữu, quì gối hữu sát đất, chắp tay cung kỉnh mà bạch Phật rằng : "Như đức Thế Tôn ít có!".

 

Giải : Lý Văn Hội giải: Ông Tu Bồ Đề tỏ pháp "Không" bực nhứt, cho nên đến hỏi Phật trước hết.

Hữu tất trước địa: là trước dứt sạch "tam nghiệp" diệt trừ thân tâm, sửa sang nghiêm chỉnhxưng tán Phật.

Hiệp chưởng : là Tâm hiệp với đạo, đạo hiệp với tâm.

Hy hữu : là Tánh Phật ta hay bao trùm muôn pháp, không chi sánh bằng.

Tăng Nhược Nột giải: Thiên đản : là tục người Tàu, khi chịu lỗi xin tội thì ở trần, còn bên Tây Vức thi lễ thì trịch áo nửa thân mình - Phong tục hai xứ không đồng nhau.

Hữu kiên :đệ tử hầu thầy, tỏ cái phép bưng xách hoặc làm công việc cho tiện.

Hữu tất trước địa : là trong kinh Văn Thù vấn Bát Nhã có nói: "Bên hữu là đạo chánh, bên tả là đạo tà. Dùng chánh bỏ tà sẽ cầu hỏi về cái hạnh chánh không tướng".

Vương Nhựt Hưu giải: Bạch: là kính thưa. Hy : là ít. Thế Tôn : là hiệu của Phật.

Trước than thở khen ngợi là ít có, rồi sau mới bạch Phật.

11.-ÂM :

Như Lai thiên hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phú chúc chư Bồ Tát.

NGHĨA :

Như Lai hay đoái tưởng các Bồ Tát, hay giao phó dặn dò các Bồ Tát .

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Như Lai : là hiệu Phật.

Phật sở dĩ gọi là Như Lai, là bởi "Chơn tánh", cũng kêu là "Chơn như". Vậy thì, "Như" tức là "Chơn tánh".

Chơn tánh sở dĩ gọi là "Như" đó, là bởi sự sáng của nó soi khắp cả vô lượng thế giới, không chi che lấp đặng. Còn sự tỏ thì thông cả thảy nhưng việc của vô lượng kiếp, không chi mà ngăn ngại đặng. Lại hay biến hiện, cũng làm cả thảy chúng sanh, không chỗ nào mà chẳng đặng. Vậy mới thiệt là "tự như" (muốn làm sao cũng đặng).

Còn nói "Lai" là Chơn tánh hay tùy chỗ mà hiện lại, cho nên nói: Như Lai.

Tánh Chơn như vốn không tới lui, mà nói là "Lai" là bởi nó ứng hiện tại đó, cho nên nói: "Lai"  bằng có người chí thành cầu khẩn, thì có cảm ứng liền. Nếu muốn vì cả thảy chúng sanh, lập pháp dạy bảo, thì hiện sắc thân mà đến nơi ấy.

Phật, sở dĩ gọi là Như Lai đó cũng bởi  Như như là bổn thể của Chơn tánh. Còn nói là  Lai  là ứng dụng của Chơn tánh. Vậy thì, "Như Lai" là gồm đủ cả thể và dụng của Phật mà nói. Tóm lại kinh này thường nói Như Lai là vậy đó.

Tiếng Phạm nói  Bồ Tát, vốn là  Bồ đề tát đả. Muốn cho gọn câu văn và dễ xưng hô, nên nói tắt là Bồ Tát.

Bồ đề : là Giác, Tát đả : là Hữu tình. Hữu tình tức là chúng sanh. Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật; bởi có sanh phải có tình. Duy có bực Bồ Tát ở trong bọn hữu tình mà đặng tỏ ngộ mà thôi. Cho nên nói: Giác hữu tình.

Nói đại khái, hễ có tình thì có vọng tưởng. Bực Bồ Tát chưa dứt hết tình tưởng, duy có tu đến bực Phật mới dứt hết tình tưởng đặng. Cho nên Phật, riêng gọi là Giác, mà chẳng gọi là Hữu tình.

Phật nói: "Cả thảy chư Phật đều đặng giải thoát các lòng vọng tưởng, chẳng còn mảy mún chi". Cho nên nói: "Phật".

Phật lại nói: "Mười một bực Bồ Tát  đều có hai thứ ngu si". Ngu si đó há không phải là cái tình vọng tưởng hay sao? - Vậy nên, Bồ Tát mới gọi là hữu tình, chớ chẳng đặng riêng gọi là Giác.

Trần Hùng giải: Bồ Tát : là người vâng giữ giáo pháp của Phật. Chư Bồ Tát : là chỉ hết đại chúng mà nói. Đại chúng nghe Như Lai  thuyết pháp, rất nên tin tưởng kính vâng.

Thoảng như Phật chẳng mở lòng  từ bi  che chở, đoái tưởng, khiến cho tin tưởng pháp ấy, ắt bị loài ma dữ thừa dịp mà khuấy rối, và chẳng dạy bảo, khiến cho kính vâng pháp ấy, thì pháp mầu có khi phải dứt mất. Cho nên ông Tu Bồ Đề ở trong hàng đại chúng, trước khi nghe  thuyết pháp, không  còn lo chi  khác hơn là cầu xin Như Lai mở lòng  từ bi  mà đoái tưởng, dạy bảo.

 Lý Văn Hội giải: Như Lai: Như  thì chẳng sanh, Lai  chẳng diệt; chẳng phải tới, chẳng phải lui, chẳng phải ngồi, chẳng phải nằm, lòng hằng vắng lặng, rỗng rang thanh tịnh.

Thiện hộ niệm: là hay dạy các người, chẳng dấy  lòng vọng  niệm.

Chư Bồ Tát, chư : là chẳng phải một, Bồ: là soi, Tát: là thấy. Nghĩa là: soi thấy  năm uẩn  đều không -  Năm uẩn là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Bồ Tát :Đạo tâm. Chúng sanh : là người thường giữ tánh cung kỉnh, cho đến các loài: có vảy, vỏ, cánh, lông, cùng loài dòi, trùng, dế, kiến, đều dấy lòng ái kỉnh, chẳng hề khinh dễ. Nên Phật thường nói các loài bò, bay, máy, cựa, đều có tánh Phật là vậy.

Thiện phú chúc : là mỗi niệm đều  tinh tấn, chớ cho nhiễm chấp. Niệm trước vừa nhiễm, niệm sau liền  giác ngộ, chớ cho nó tiếp tục nhau.

Xuyên Thiền sư giải: Như Lai chưa thốt một lời nào, cái gì mà Tu Bồ Đề lại thở than khen ngợi?

Có đủ "nhãn lực" hơn trong bọn, nên dùng "nhãn lực" mà xem.

Tụng:

Cách non thấy khói hay rằng lửa,

Khuất vách lò sừng vốn biết trâu.

Ngồi dưới trời trên trời sộ sộ,

Đông Tây hà tất bói khoa cầu.

12.-ÂM :

Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn, phát A nậu đa la tam miệu bồ đề tâm...

NGHĨA :

Bạch đức Thế Tôn! Như có trai lành, gái tín nào phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

 

Giải : Lý Văn Hội giải: Thiện nam tử là người có lòng "chánh định". Thiện nữ nhơn : là người có lòng "chánh huệ". Nghĩa là nói cả thảy đều có lòng quyết đoán chắc chắn, hằng không lui sụt. Ấy là tỏ ra cái nghĩa "phát tâm".

A: Vô, là không có lòng ô nhiễm.

Nậu đa la: Thượng, là trong  ba cõi không ai sánh bằng.

Tam: Chánh, là chánh kiến.

Miệu: Biến, là cả thảy các loài hữu tình, không chỗ nào là chẳng có; Bồ Đề : Tri,là biết cả thảy loài hữu tình đều có tánh Phật.

Vương Nhựt Hưu giải: A, Nậu Đa la  Thượng, Tam Chánh, Miệu Đẳng, Bồ đề Giác.

A nậu đa la tam miệu tam bồ đề là: Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tức là "Chơn tánh, mà Chơn tánh tức là Phật".

Phật: Giác. Nói tắt là "Giác", mà nói rõ là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Chơn tánh không có chi trên đặng, nên nói: Vô thượng. Trên từ chư Phật, dưới đến loài bò, bay, máy, cựa, tánh ấy đều bình đẳng như nhau, nên nói: Chánh đẳng  - Cái tánh giác ấy, viên mãn sáng soi không chênh, không kém, nên nói: Chánh giác.

Sở dĩ thành Phật là đặng cái tánh ấy. Bởi vậy mới siêu thoát đặng ba cõi, chẳng còn luân hồi nữa.

Tăng Nhược Nột giải: Bồ Tát trước khi tu hành đều có phát lòng rộng lớn như vậy cả.

13.-ÂM :

Vân hà ưng trụ? Vân hà hàng phục kỳ tâm?

NGHĨA :

Nên trụ thế nào? Nên hàng phục cái vọng tâm thế nào?

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Ưng : là nên, Vân: là nói; Vân hà : là nói làm sao (Thế nào). Vân hà ưng trụ : là nên trụ chỗ nào.

Vân hà hàng phục kỳ tâm : là nên hàng phục cái vọng tâm thế nào.

Tăng Nhược Nột giải: Tu Bồ Đề có hỏi hai điều:

1. - Chúng sanh phát lòng Vô thượng, muốn cầu pháp Bát Nhã, thế nào là trụ đặng chỗ đế lý  (lý chắc)?

2. - Hàng phục cái vọng tâm, thế nào mà diệt trừ đặng sự hoặc loạn?

Những lời nói trong bộ kinh này, đều chẳng ngoài cái lý "hàng trụ" ấy.

Lý Văn Hội giải: Vân hà hàng phục kỳ tâm: là ông Tu Bồ Đề gọi kẻ phàm phu vọng niệm, phiền não không ngằn. Vậy phải nương pháp chi mà điều đình và hàng phục cho đặng?

Xuyên Thiền Sư giải: Lời hỏi ấy, bởi đâu mà ra?

Tụng:

Ngươi vui ta chẳng vui

 Ngươi thẹn ta không thẹn,

 Ải Bắc thẩn thơ nhàn;

 Ổ xưa rù quến én,

 Xuân hoa thu nguyệt ý không ngằn,

 Mình biết lấy mình lãnh noản.

14.-ÂM :

Phật ngôn: Thiện tai! Thiện tai! Tu Bồ Đề như nhữ sở thuyết: Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phú chúc chư Bồ Tát...: Nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết.

NGHĨA :

Phật khen: Đáng khen cho! Đáng khen cho! Tu Bồ Đề này! Theo lời Ông nói: Như Lai hay đoái tưởng các Bồ Tát, hay giao phó dặn dò các Bồ Tát... Vậy nay ông hãy lóng nghe. Ta đáng vì ông mà nói.

 

Giải : Lý Văn Hội giải: Như nhữ sở thuyết: là Phật khen ông Tu Bồ Đề hay biết ý Phật, khéo dạy mọi người chẳng dấy vọng niệm lòng hằng tinh tấn, chớ cho nhiễm chấp các pháp tướng.

Đế thính : Đế cũng kêu là liễu (tỏ). Ông phải tỏ thấu "thinh trần", xưa nay chẳng sanh, chớ chấp theo tiếng nói; phải xét cho kỹ rồi sẽ nghe theo.

Vương Nhựt Hưu giải: Đế : là xét, là nói: nghe cho chín chắn.

15.-ÂM :

Thiện nam tử, thiện nữ nhơn, phát A Nậu Đa La Tam miệu tam bồ đề tâm, ưng như thị trụ, như thị hàng phục kỳ tâm. Dủy nhiên Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn.

NGHĨA :

Như trai lành, gái tín nào phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên trụ như vậy, nên hàng phục cái vọng tâm như vậy. Vâng, vâng, bạch đức Thế Tôn! Con nguyện hết lòng muốn nghe .

 

Giải : Lý Văn Hội giải: Ưng như thị trụ: là Như Lai muốn khiến cái lòng chúng sanh, chẳng sanh chẳng diệt, rỗng rang thanh tịnh mới thấy tánh đặng.

Hàng Cư sĩ giải:

Tụng:

Người đời trọng của báu,

Ta quí sát na tịnh.

Của báu rối lòng người,

Tịnh rồi hẳn thấy tánh.

 

Tiêu Diêu Ông giải: Lòng phàm phu động mà tối tăm, lòng Thánh nhân tịnh mà sáng suốt.

Lại nói: Kẻ phàm phu nào tâm cảnh thanh tịnh, là cõi tịnh của Phật, còn tâm cảnh uế trược, là cõi trược của ma.

Huỳnh Nghiệt Thiền sư giải: Kẻ phàm phu phần nhiều bị cảnh ngại lòng, sự ngại lý, hằng muốn trốn cảnh an lòng, bỏ sự theo ; đâu biết tại lòng ngại cảnh, lý ngại sự, chớ kỳ thiệt: Lòng không cảnh mới không, lý dứt sự mới dứt. Chẳng nên dụng tâm trái ngược như thế.

Lại nói, kẻ phàm chấp cảnh, người trí chấp lòng. Lòng, cảnh đều không, mới thiệt chơn pháp. Quên cảnh còn dễ, quên lòng rất khó. Người bằng chẳng dám quên lòng, e sa về chỗ "không", hết nơi tìm kiếm; chớ chẳng biết cái không vốn chẳng phải không trong ấy hẳn có một cái chơn pháp giới.

Kẻ phàm phu đều theo cảnh sanh lòng, mới có sự vui chán. Bằng muốn không cảnh thì phải không lòng. Lòng không thì cảnh mới không, cảnh không thì lòng mới dứt. Bằng chẳng không lòng, cứ lo trừ cảnh, cảnh đã chẳng trừ đặng, mà càng lại càng thêm rối rắm là khác.

Muôn pháp chỉ tại nơi tâm, mà tâm chẳng có chi mà đặng. Đã không chi đặng mới thiệt là rốt ráo. Hà tất phải bo bo mà cầu giải thoát?

Như thị hàng phục kỳ tâm : Bằng thấy đặng tự tánh tức là không vọng niệm. Đã không vọng niệm tức là hàng phục cái tâm.

Dủy : là vưng dạ; nhiên: là hiệp ý. Nguyện nhạo dục văn : là lòng vui mừng, muốn nghe pháp.

Trần Hùng giải: Dủy: là dạ, nhiên: là phải vậy.

Nhan Bính giải: Phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm: là phát tâm  Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Ưng: là nên, trụ : là còn hoài chẳng dứt.

Ông Tu Bồ Đề hỏi Phật: Như có trai lành gái tín nào mộ đạo, phát lòng  Bồ Đề, phải làm thế nào mà đặng còn hoài chẳng dứt? Làm thế nào mà hàng phục cái vọng tâm?

Phật bảo: Đáng khen cho! Là đáng khen! - Ấy là lời thở than khen ngợi. Phát lòng  Bồ Đề  nên trụ như vậy.... nên  hàng phục  cái tâm như vậy... Như vậy là chỉ cái việc ấy.

Dủy nhiên: là lời "vưng dạ" của ông Tu Bồ Đề, so cùng lời dạy của thầy Tăng chẳng khác ([74]).

Nhạo : là ưa muốn, là ưa muốn nghe nói pháp.

Trí Giả Thiền Sư giải:

 

Tụng:

Ít có ai như Phật,

Đạo mầu tột Niết Bàn.

Thế nào là phục trụ,

Pháp ấy rất gian nan.

nhị nghi huyền diệu,

Giáo tam thắng ([75]) rộng khoan.

Đáng khen nghe phải lòng,

Lục tặc khó che ngăn.

 

Xuyên Thiền Sư giải: Thường thường cái việc chi cũng bởi sự dặn dò cặn kẽ mà ra.

 

 

 

Tụng: 

Bảy tay, tám chơn.

Mặt quỉ, đầu thần,

Chặt mấy không rã.

Đã hoài không vàng.

Lắm lúc múa men trên thế giới.

Bổn lai chẳng khỏi điện Không vương.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11152)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16505)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 12002)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12160)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12851)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12806)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10296)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 14034)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10273)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13769)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16333)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 12047)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 13040)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11716)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12735)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10878)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11054)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 11003)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11951)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12855)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11151)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12676)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11392)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12585)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14169)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10920)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10594)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11270)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12071)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13225)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12411)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15416)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14407)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12167)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15456)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12061)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12477)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11262)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12138)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10678)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12596)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13242)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14926)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12756)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16642)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19742)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12332)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13593)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12007)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11698)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12815)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14598)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12679)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15750)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13680)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12971)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18079)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11241)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12257)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13106)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant