Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương hai mươi sáu

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10242)
Chương hai mươi sáu

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG HAI MƯƠI SÁU

142.ÂM:

"Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Khả dĩ tam thập nhị tướng quang Như Lai phủ ?".

 Tu Bồ Đề ngôn: "Như thị ! như thị ! Dĩ tam thập nhị tướng quang Như Lai".

NGHĨA:

"Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Có nên dùng ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai chăng?".

 Tu Bồ Đề bạch Phật: "Thiệt vậy ! thiệt vậy ! Cũng nên dùng ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai".

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Như Lai  là chơn Phật; nghĩa này trong phần thứ năm đã nói rồi, mà đến đây lại nói nữa, là vì những thính giả mới đến sau. Rồi lại nói thêm cái nghĩa vua Chuyển Luân Thánh Vương nữa.

Lý Văn Hội giải: Ông Không Sanh nghi Phật nói chúng sanh là có, cũng có thể làm Thánh đặng: còn  pháp thân  chẳng phải là không, cũng nên dùng tướng tốt đẹp ấy mà cho là  Pháp thân.

Xuyên Thiền sư giải: Lầm!

Tụng:

 

Hình cây hình giấy cùng hình đúc,

Sơn đỏ thết vàng thêm vẽ lục.

Bằng nhận tướng này là pháp thân,

Tức cười những kẻ Nam mô Bụt (Phật),

143.ÂM:

Phật ngôn: "Tu Bồ Đề! Nhược dĩ tam thập nhị tướng quang Như Lai giả, Chuyển Luân Thánh Vương tức thị Như Lai?".

 Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn: "Thế Tôn! Như ngã giải Phật sở thuyết nghĩa, bất ưng dĩ tam thập nhị tướng quang Như Lai".

NGHĨA:

Phật bảo: "Tu Bồ Đề! Nếu dùng ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai, thì Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Như Lai?".

 Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Như con mà tỏ cái nghĩa của Phật nói, thì chẳng nên dùng ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai".

 

Giải : Lục Tổ giải: Lòng đại bi của Thế Tôn e cái bịnh chấp tướng của Tu Bồ Đề chưa dứt nên hỏi lời ấy. Tu Bồ Đề chưa rõ ý Phật  mới nói như vậy như vậy, thì trước đã mê, rồi lại nói dùng 32 tướng mà cho là  Như Lai  thì lại càng mê; lìa  chơn tánh càng xa, nên  Như Lai  mới thuyết phá lòng mê rằng: "Nếu dùng 32 tướng mà cho là  Như Lai, thì vua  Chuyển Luân Thánh Vương  cũng là  Như Lai  sao?". Chuyển Luân Thánh Vương  tuy có 32 tướng nhưng không đồng với  Như Lai đặng.

Thế Tôn  dẫn lời ấy, đặng trừ bịnh chấp trước cho ông  Tu Bồ Đề, khiến cho tỏ ngộ đặng thâm thấu.

Tu Bồ Đề  bị hỏi, lòng mê liền hết, nên nói: "Như con biết đặng nghĩa của  Phật  thì chẳng nên dùng 32 tướng mà cho là Như Lai ".

Tu Bồ Đề  là bực  Đại A La Hán  nên ngộ đã thâm, đặng  pháp môn phương tiện, không lạc vào nẻo mê, xin Đức Thế Tôn trừ dứt sự  tế hoặc  đặng cho chúng sanh đời sau khỏi lầm.

Vương Nhựt Hưu giải: Phật  lại bảo ông  Tu Bồ Đề: "Nếu dùng 32 tướng mà cho là  Như Lai thì Chuyển Luân Thánh Vương tức là Như Lai sao?".

Vả chăng  Chuyển Luân Thánh Vương  là một vị  Tứ Thiên Vương  cai quản bốn châu thiên hạ: tháng giêng, tháng năm, tháng chín thì châu Nam Diêm Phù Đề; tháng hai, tháng sáu, tháng mười thì châu Tây Cù Va Ni; tháng ba, tháng bảy, tháng mười một thì châu Bắc Uất Đơn Việt; tháng tư tháng tám, tháng chạp thì châu Đông Phất Bà Đề; thường luân chuyển như bánh xe mà soi bốn châu thiên hạ, xét việc lành dữ của nhơn gian, nên gọi là  Chuyển Luân Thánh Vương. Cũng bởi nhờ nghiệp phước nhiều nên sắc thân cũng cụ túc 32 tướng in như  Phật.

Phật  đã nói: "Nếu có 32 tướng là  Phật, thì Chuyển Luân Thánh Vương  cũng là Phật ", vậy thì chẳng nên dùng 32 tướng mà cho là Phật, cho nên lại nói tiếp: chẳng nên dùng 32 tướng mà cho là Như Lai.

Lý Văn Hội giải: Chuyển Luân Thánh Vương v.v... là Phật dùng việc gần mà viện chứng, khiến cho tự hiểu.

Lai nói: Chưa thông bốn tướng, thì tâm còn sanh diệt; sanh diệt là lòng của  Chuyển Luân Thánh Vương; tuy tu 32 tịnh hạnh, lòng sanh diệt càng nhiều, hẳn không tỏ cái lòng bổn lai thanh tịnh cho nên nói: Chẳng nên dùng 32 tướng mà cho là Như Lai.

Xuyên Thiền sư giải: Lầm!

Tụng: 

 

sắc thân, không sắc thân,

Ở trên hương án ở Côn Lôn,

Bổn lai vật vật nguyên là đấy,

Hà tất Linh Sơn hỏi Thế Tôn!?

 

Như vương cầm gươm.

 

Ý KIẾN DỊCH GIẢ

Câu trả lời "Cũng nên dùng 32 tướng mà cho là Như Lai" của ông Tu Bồ Đề đó, mà sanh ra một trường ngôn luận. Nhiều Tổ cho ông Tu Bồ Đề là trước khi tánh còn mê nên mới trả lời như thế; đến khi nghe Phật nói gằn "Nếu dùng 32 tướng mà cho là Như Lai thì Chuyển Luân Thánh Vương tức là Như Lai sao?" rồi mới ngộ lại.

Theo ý kiến của chúng tôi thì ông Tu Bồ Đề không phải còn mê mà trả lời câu ấy. Bởi trong hàng thập đại đệ tử ông là Giải Không đệ nhứt, (rõ lý Không) và hội thuyết pháp Kim Cang (này) ông với Phật Tổ trước sau đã biện luận bốn lần về thân tướng (nơi phần thứ năm,mười ba và hai mươi) mỗi mỗi ông đều luận thấu lý cả thì trước kia ông đã ngộ có lẽ nào nay lại mê bao giờ? Theo sự tấn hóa thì càng ngày càng tăng tiến lên mới phải chớ càng ngày càng sụt xuống là nghĩa gì? Sách Mạnh Tử nói: Vị vân há kiều mộc nhi nhập vu u cốc (chưa hề nghe ở trên cây tuột xuống chung vào trong hang).

Chúng tôi xin mạn pháp luận như vầy: Ông Tu Bồ Đề trả lời câu ấy, là theo ý ông tưởng mấy lần trước ông cùng Phật Tổ luận về cái lý bảo thuyên đã rõ rệt, không còn chi phải luận nữa nên nay ông muốn luận về cái lý Châu Thuyên, đặng thính giả hiểu cho ráo lý, mà nói: "Nên dùng 32 tướng mà cho là Như Lai" là mượn tướng mà nói tánh, có sạ mới có lý cũng như mượn bè qua sông vậy.

Nhưng ông mới nói tới đó bị Phật Tổ không muốn nói lý ấy mà chận lại thì ông liền trả lời ngay rằng: Ông hiểu cái nghĩa của Phật "Không nên dùng 32 tướng mà cho là Như Lai".

Như vậy có nên cho ông là còn mê tánh đặng sao?!

Nên chúng tôi xin luận rằng: Ông Tu Bồ Đề không phải là còn mê tánh.

144.ÂM:

Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết kệ ngôn: "NHƯỢC DĨ SẮC KIẾN NGÃ; DĨ ÂM THINH CẦU NGÃ; THỊ NHƠN HÀNH TÀ ĐẠO, BẤT NĂNG KIẾN NHƯ LAI".

NGHĨA:

Khi ấy, Đức Thế Tôn bèn kệ rằng: "BẰNG DÙNG SẮC GỌI TA; ÂM ĐIỆU NHẬN RẰNG TA; LÀM VẬY LÀ TÀ ĐẠO, HẲN KHÔNG THẤY ĐẶNG TA".

 

 

Giải : Lưu Đẩu giải: Âm, thinh, sắc, tướng vốn tự tâm mà sanh, cái lòng phân biệt đều lạc vào tà đạo; bằng hay thấy không chỗ thấy, nghe không chỗ nghe, biết không chỗ biết, chứng không chỗ chứng, hiểu lý nhiệm ấy mới rõ  chơn tánh Như Lai.

Trong kinh Hư Hoàng Thiên Tôn, chương 44 Diệu Hạnh nói: "Thấy 32 tướng tốt, trên đầu có chín sắc hào quang, bởi ấy nên tặng cho Thiên Tôn, theo các bực Đại Tiên nhơn".

Thiên Tôn nói: "Ta chẳng phải sắc, ngươi vọng cho là sắc, ta chẳng phải tướng, ngươi vọng cho là tướng. Bằng dùng chín sắc, 72 tướng, mà xem ta, tức là bỏ không, chấp có, thì chẳng đặng dự nghe cái nghĩa lý đạo  Vô thượng ".

Sớ Sao giải: Phật bảo ông Thiện Hiện: "Ngươi chẳng nên dùng con mắt mà thấy Pháp thân của ta. Bởi cớ sao? - Là  Pháp thân  không  sắc tướng, làm sao mà thấy đặng?" - Diệu tánh của chúng sanh lại cũng như thế, không có thấy đặng.

Lại nói "Âm điệu nhận rằng ta", đó là  Pháp thân của Phật, đâu phải dùng tai mà nghe đặng. Nếu dùng tai nghe đặng thì không phải Pháp thân.

Cũng như tự tánh của chúng sanh đâu phải dùng tai mà nghe đặng. Nếu dùng tai nghe đặng tức chẳng phải  Phật tánh. Sở dĩ Phật  nói: "Bằng dùng sự nghe thấy mà cầu  Pháp thân  Ta, thì người ấy làm đạo tà, hẳn chẳng thấy  Như Lai đặng".

Pháp thân  của  Như Lai: chẳng sắc, chẳng thinh, không hình không trạng, chẳng phải dùng cái tâm mà suy nghĩ, dùng sự biết mà hiểu thấu cho đặng; ở phàm chẳng bớt, ở Thánh chẳng thêm, xem thì chẳng thấy, mà ngộ đặng rất rõ ràng.

Vương Nhựt Hưu giải: Ngã  là  chơn ngã Phật tánh; nói  Như Lai  đây là  chơn tánh Phật.

Nhược dĩ sắc kiến v.v... là chơn tánh Phật; không hình, không tướng, chẳng nên dùng hình sắc mà thấy, cũng chẳng nên dùng âm thinh mà cầu. Nếu dùng hình sắc thấy, âm thinh cầu, làm như vậy là đạo tà.

Chơn tánh là chánh, hình sắc âm thinh là tà. Nếu dùng hình sắc âm thinh mà cầu Phật, làm như vậy là đạo tà, thì đâu thấy đặng cái  chánh giác thường trụ  của  chơn tánh Phật. Cho nên nói: Hẳn không đặng thấy ta.

Như Lai  tức  chơn ngã  mà cũng tức là  Phật tánh  vậy.

Tăng Nhược Nột giải: Ngã là  Pháp thân chơn, thường, tịnh, ngã, tùy sự lưu bố mà thuyết.

Bằng dùng sắc thấy thinh cầu, lòng không chăm chỉ, đều gọi là  tà kiến  thì chẳng thấy  pháp thân  đặng.

Ông Triệu Pháp sư  có nói: "Các tướng bày trước mặt, mà không có hình, bát âm đầy bên tai, nhưng chẳng phải tiếng".

Ứng hóa chẳng phải chơn Phật, cũng chẳng phải thuyết pháp, pháp thể thanh tịnh ví như hư không, không có ngăn ngại, không lạc vào cả thảy trần cảnh.

Trần Hùng giải: Ngã  là tự tánh của chơn ngã  Pháp thân Như Lai tức là tự tánh chơn ngã. Dòm không thấy, không dùng sắc tướng mà lấy đặng: lóng không nghe, không dùng âm thinh mà cầu đặng.

Kinh Hoa Nghiêm có nói: "Sắc thân  chẳng phải  Phật, âm điệu cũng thế này".

Lại nói: "Người mà chẳng rõ cái  chơn tánh thì chẳng thấy  Phật. Chỉ phải  hồi quang phản chiếu, cứ trong tánh  mà tu, thì sẽ có Như Lai ở nơi ấy".

Nhan Bính giải: Chuyển Luân Thánh Vương, ngoài tuy đoan trang cụ túc 32 tướng, mà trong không rõ  Phật tánh, chỉ hưởng sự  lậu phước  có khi cũng phải hết.

Phật nói: "Bằng dùng 32 tướng mà cho là Như Lai, thì  Chuyển Luân Thánh Vương  tức là  Như Lai  sao?" - Ông  Tu Bồ Đề, sau khi nghe  Phật bảo mới hiểu mà nói: "Như con rõ nghĩa của Phật, thì chẳng nên dùng 32 tướng mà cho là  Như Lai ". Sở dĩ  Thế Tôn  mới nói: "Bằng dùng sắc gọi ta, âm điệu nhận rằng Ta". Ta là có tướng ta, chẳng đặng đại tự tại. Muốn dùng hình sắc âm thinh mà cầu cái tướng ta, thì người ấy làm đạo tà không  chánh kiến. Cho nên chẳng thấy Như Lai và chẳng rõ cái tánh Như như  đặng.

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng: 

Niết bàn trùm bốn đức, Đức ngã đúng chơn thường.

Tự tại xưng tôn hiệu, Oai danh rất hiển vang.

Sắc thanh đều chẳng có, Tâm thức khó so lường.

Dùng mắt xem nào thấy, Ngộ rồi mới tỏ tường.

Xuyên Thiền sư giải: Ví dầu chẳng dùng thinh cầu sắc thấy cũng chưa thấy đặng  Như Lai  ở đâu. Nói thử coi! Thế nào mà thấy đặng? Chẳng suy nghĩ, chẳng suy nghĩ!

 

Tụng:

 

Thấy sắc nghe thanh tánh thế thường,

Một từng tuyết đọng một từng sương,

Muốn cho thấu đáo do lai Phật,

Vào bụng Ma Va mới hẳn tường.

 

Ôi! Lời nói ấy đến đời sau, quăng xuống đất tiếng khua rang rảng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11164)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16535)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 12018)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12195)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12871)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12836)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10338)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 14067)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10289)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13787)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16359)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 12069)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 13056)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11734)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12755)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10899)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11069)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 11024)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11967)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12878)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11161)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12692)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11433)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12614)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14185)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10931)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10604)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11291)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12088)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13240)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12443)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15447)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14416)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12195)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15473)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12089)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12489)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11275)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12162)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10698)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12615)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13262)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14950)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12775)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16667)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19759)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12364)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13619)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12030)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11714)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12838)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14622)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12703)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15766)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13708)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12999)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18106)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11255)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12278)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13133)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant