Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương năm

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9430)
Chương năm

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG NĂM

28.-ÂM :

Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Khả dĩ thân tướng khiến Như Lai phủ?".

NGHĨA :

Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Có nên dùng thân tướng mà cho là Như Lai chăng?".

 

Giải : Bảo Tích Như Lai giải: Chơn thân của Như Lai vốn không sanh diệt, rỗng rang hằng còn, nhưng mượn năm uẩn mà chịu sắc thân như người phàm, hầu có thuyết pháp hóa độ. Cũng nhập thần vào thai mẹ vậy; song, sánh với tướng phàm đều là khác, cho nên nói: "Bằng thấy các tướng chẳng phải tướng, tức rõ đặng Như Lai".

Tụng: 

 

Tưởng phàm dầu diệt tánh còn hoài,

Thể giác Chơn như chẳng kém phai.

Tỏ lý "đoạn, thường" căn quả khác,

Mới rằng Phật, nhãn thấy Như Lai.

 

Vương Nhựt Hưu giải: Đây nói Như Lai là chơn tánh Phật.

Phật kêu ông Tu Bồ Đề mà hỏi: "Có nên dùng ba mươi hai tướng mà cho là Chơn tánh Phật chăng?".

 

 

29.-ÂM :

Phất dã, Thế Tôn! Bất khả dĩ thân tướng đắc kiến Như Lai.

NGHĨA :

Bạch đức Thế Tôn! Không. Không nên dùng thân tướng mà cho là Như Lai.

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Ông Tu Bồ Đề trả lời: "Không". Rồi lại bạch cùng đức Thế Tôn: "Không nên dùng thân tướng mà cho là chơn tánh Như Lai". Vây thì, trước nói "không" là nói đại lược rồi sau mới nói rõ.

Lý Văn Hội giải: Bất khả dĩ thân tướng đắc kiến Như Lai : là ông Tu Bồ Đề nói: "Sắc thân thì có tướng, pháp thân thì không tướng". Sắc thân là đất, nước, lửa, gió, (địa, thủy, hỏa, phong) giả hiệp lại mà thành, Pháp thân là không hình dạng tướng mạo; sắc thân tức phàm phu, pháp thân tức Như Lai. Ông Tu Bồ Đề cho hạng phàm phu chỉ biết có sắc thân, chớ chẳng thấy đặng pháp thân, nên mới đáp như thế !

30.-ÂM :

Hà dĩ cố? - Như Lai sở thuyết thân tướng tức phi thân tướng.

NGHĨA :

Bởi cớ sao? - Bởi Như Lai thường nói thân tướng, tức chẳng phải thân tướng.

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Đây nói Như Laisắc thân của Phật.

Ông Tu Bồ Đề tự hỏi: "Bởi cớ sao chẳng nên dùng thân tướng mà cho là chơn tánh Như Lai?". Rồi tự đáp: "Như Lai thường nói: Thân tướng không phải là chơn thiệt". Cho nên nói: "Chẳng phải thân tướng" vì không có cái thân tướng chơn thiệt".

Lý Văn Hội giải: Như Lai sở thuyết thân tướng tức phi thân tướng: Phi không sắc thân. Phàm phu gọi sắc thân là thiệt có, mới chấp trướctu hành, nên không thấy đặng tánh Phật; phải bị sanh tử luân hồi trở nên thâm trọng. Còn pháp thân của Như Lai, vốn không có tướng. Cho nên nói: "Thân tướng là chẳng phải thân tướng".

Kinh Hoa Nghiêm có nói:

 

"Phật lấy pháp làm thân.

 

Thanh tịnh như hư không"..

 

Cho nên ông Vân Môn Đại sư có nói: "Nếu khi đó mà ta gặp thì đập một roi cho chết, mà cho chó ăn". Ấy là người Đại thừa tiên giác, mở trói gở niêm, giải nghi phá chấp cho đời vậy.

Huỳnh Nghiệt Thiền sư giải: Người học đạo như muốn biết lẽ nhiệm mầu, chỉ có đừng chấp trước điều chi trong lòng thì đủ.

Pháp thân của chơn Phật cũng như hư không, nên nói Pháp thân tức hư không. Hư không tức Pháp thân. Người đời gọi Pháp thân khắp cả hư không, trong hư khônghàm súc Pháp thân, chớ chẳng biết Pháp thân tức là hư không, hư không cũng tức là Pháp thân.

Hư không cùng Pháp thân, tướng không khác; Phật cùng chúng sanh tướng không khác; sanh tử cùng Niết bàn tướng không khác; phiền não cùng Bồ đề tướng cũng không khác: "Lìa cả thảy tướng tức là chư Phật".

Xuyên Thiền sư giải: Nói thử coi, hiện nay đi, đứng, nằm, ngồi là tướng gì đó? Đừng ngủ gục!

Tụng:

 

Vào sông kiếm nước khéo cơ cầu!

Lên núi còn tìm núi ở đâu?

Yến nói oanh kêu cùng một cách,

Hỏi chi ba trước với ba sau.

31.-ÂM:

Phật cáo Tu Bồ Đề: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng, phi tướng tức kiến Như Lai".

NGHĨA:

Phật bảo Tu Bồ Đề: "Phàm chỗ nào có tướng đều là hư vọng. Bằng cho các tướng chẳng phải tướng tức rõ đặng Như Lai".

 

Giải : Trần Hùng giải: Ông Tu Bồ Đề muốn cho mỗi người đều tự thấy Phật tánh của mình. Vậy nên mới nói: "Là chẳng phải thân tướng".

Sắc thân là cái thể không có chơn thiệt của tướng, cho nên nói: "Đều là, hư vọng".

Pháp thân chẳng phải tướng, trong ấy chỉ có cái bổn thể của Chơn Như.

Bằng thấy các tướng chẳng phải tướng, là thấy trong sắc thân, trong tự tánhNhư Lai. Như Lai mà không cầu ở ngoài, thì mới thấy tự tánh.

Kinh Bảo Đàn có nói: "Phật tức là tánh, lìa tánh thì không còn Phật nào khác".

Nhan Bính giải: Phật hỏi: "Nên dùng thân tướng mà cho là Như Lai chăng?".

Ông Tu Bồ Đề đáp: "Chẳng nên".

Như Lai :tự tánh, chẳng phải có tới lui, còn sắc thân tứ đại, vốn bởi vọng niệm mà sanh ra. Bằng chấp lấy thân tướng hư vọng ấy, mà muốn rõ chơn tánh Như Lai, thì ví như nhận kẻ giặc làm con, hẳn không phải lẽ. Cho nên Phật bảo ông Tu Bồ Đề: "Phàm chỗ có tướng đều hư vọng, bằng thấy các tướng chẳng phải tướng, tức thấy Như Lai". Như biết  hồi quang phản chiếu, thấy đặng thân tướng không có chi là tướng, thì mới rõ tự tánh Như Lai.

Lý Văn Hội giải: Phàm sở hữu tướng giai thị như vọng: Hư : là chẳng thiệt; vọng: là không chơn. Đã không chơn thiệt, thì tướng tức là chẳng phải tướng.

Lại nói : "Chẳng phải có một mình thân tướng của Phật, là chẳng phải tướng mà thôi. Phàm cái chi mà có tướng, cũng đều là hư vọng cả.

Sắc thân có tướng, nên nói là hư vọng; còn Pháp thân không có tướng, nên nói là chẳng phải tướng".

Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai, là nói: Tướng hư vọng tức là "Nhơn không"; chẳng phải tướng tức là "Pháp không". Bằng biết nhơn, pháp đều không thì rõ tự tánh.

Kinh Pháp Hoa có nói : "Tất cả các tướng, thảy đều vắng lặng". Lại nói: "Bực Bồ Tát xem các pháp tánh  không có hai tướng cũng như hư không".

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng:

Như Lai nói sắc thânPhương tiện độ thời nhân.

E đọa vào không kiền, Nên quyền phải giả xưng,

 

Tướng băm hai có mấy? Hình tám chục không nhưng

Giác thể nguyên không thể, Không thân mới thiệt chân.

Xuyên Thiền sư giải: Núi là núi, nước là nước. Phật ở đâu?

Tụng:

 

 

Có tưởng sờ sờ là giả vọng,

Không hình bặt bặt tức thiên khô;

Đàng hoàng sộ sộ nào xen lộn;

Chói lói hào quang khắp thái hư.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6819)
Hai chữ quy y có nghĩa là : quay về hay hồi chuyển. Y là nương tựa hoặc dựa vào, những hành vi hồi chuyển nương tựa hoặc quay đầu dựa dẩm tin tưởng.
(Xem: 6235)
Niềm tin sâu xa nhất trong giáo lý nhà Phật là tất cả mọi người đều có thể tự cải biến mình trong từng giây phút một. Chẳng có gì gọi là định mệnh cả.
(Xem: 6580)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn.
(Xem: 7819)
Nhẫn nhục là chịu nhịn những điều sỉ nhục xấu hổ, nhục nhã, chịu đựng tổn thương trước những cảnh, sự việc không vừa lòng, nghịch ý, trái tai gai mắt;
(Xem: 6327)
Nền giáo dục hòa bình của Đạo Phật là một con đường đạo đức nhân bảnthiết thực, là căn cứ trên chân lý từ bi, công bằng và...
(Xem: 6649)
Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy mọi sự vật, hiện tượng trong phạm vi giới hạn của đôi mắt mình, nhưng...
(Xem: 5772)
Tôi đến với Phật pháp vì … quá khổ.
(Xem: 5677)
Phải luôn luôn có tâm tùy hỷ đến tất cả mọi người, nếu chưa được giải thoát thì sau khi chết, năng lực tùy hỷ sẽ đẩy mình đến những cảnh giới tốt.
(Xem: 5723)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 6848)
Chúng ta biết tu là chúng ta biết sống. Một thứ tài sản không bao giờ bị mất. Ai muốn giàu, muốn sung túc thì hãy ráng nhớ giữ gìn tài sản này.
(Xem: 6123)
Thuyết bốn Đế, tức bốn Chân lýcăn bản, là cốt lõi tinh túy của đạo Phật, là nội dung bài thuyết pháp đầu tiên của Phật ở Vườn Nai (Bénarès).
(Xem: 7135)
Đạo Phật thường quán niệmsuy tưởng về khổ đau vì đó là kinh nghiệm chung của toàn thể nhân loại.
(Xem: 6259)
Chúng ta chẳng cần tìm Phật ở đâu xa, ngài luôn luôn ở ngay trong cuộc đời, nhưng chúng ta không thấy, vì ...
(Xem: 6205)
Chúng ta có thể tìm ra chánh pháp của Phật, nghĩa là chân lý, ở khắp mọi nơi, chứ không bắt buộc chỉ tìm trong kinh điển.
(Xem: 6649)
Chúng ta đã tìm Phật và tìm Pháp, nay phải đi tìm Tăng cho đủ Tam Bảo, nói cho đủ là Tăng già, phiên âm chữ Phạn Sangha.
(Xem: 5930)
Dù là xuất gia hay tại gia, thường niệm pháp Quy Y trong đời sống, lấy Tam Bảo làm mục đích làm lợi ích cho Dân Tộc và cho cả chúng sinh.
(Xem: 6098)
Kinh sách và Đạo Pháp của Phật không phải giúp để góp nhặt sự hiểu biết mà phải dùng để tự biến cải lấy chính ta.
(Xem: 6484)
Tâm chúng sinh và Phật vốn không khác. Tất cả đều do tâm tạo. Mười cõi cũng do tâm tạo.
(Xem: 5752)
" Nầy các Tỳ kheo Như Lai nói tác ý tức là nghiệp vì có ý muốn làm mới có hành động thân khẩu ý ". Như vậy mười nghiệp lành là 10 điều giúp cho con người thực hiện trong sạch hoá thân khẩu và ý .
(Xem: 6874)
Khái niệm về sự tái sinh không phải là một khái niệm đặc thù của Phật Giáo mà đấy chỉ là một học thuyết chủ trương sự « đầu thai »
(Xem: 6037)
Có những niềm tin gây mê lầm, tội lỗi, gieo tai họa cho chính những người mang niềm tin đó mà họ không hay không biết, hoặc gieo tai họa lên nhiều người...
(Xem: 5928)
Theo kinh Lăng-già, Bồ-tát vì muốn độ tất cả chúng sanh đạt đến Niết-bàn nên phát nguyện ở lại thế giới nhiều khổ đau này để làm lợi ích cho chúng sanh.
(Xem: 6621)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5525)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5606)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 8133)
Mười nghiệp lành không những ngăn giữ chúng sanh khỏi bị đọa lạc vào bốn con đường đau khổ, mà còn mở cánh cửa thênh thang hạnh phúc an vui của phước báu nhân thiên sang cả.
(Xem: 6179)
Theo tâm lýkinh nghiệm, việc chọn lựa một tông phái để theo, phần lớn tùy thuộc vào sở thích và môi trường sinh sống của từng người.
(Xem: 5747)
Tất cả các hệ thống giáo lý phong phú của đạo Phật chỉ có một mục đích duy nhất là trình bày phương pháp và đường lối giải thoát,
(Xem: 8906)
Một người đã tin ở luật nhân quả trong đời hiện tại thì cũng phải tin ở luật nhân quả các đời quá khứ, và vị lai.
(Xem: 6559)
Thực tế cho chúng ta thấy, người học đạo thì nhiều, nhưng để sửa tâm tánh thì không bao nhiêu, đó là kết quả do việc không chịu lắng nghe.
(Xem: 5924)
"Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyền thuộc, là nơi nương tựa" .
(Xem: 5821)
Ngày nay phong trào nghiên cứu Phật học không còn bị thu hẹp trong giới Phật giáo mà đã phổ biến vào mọi tầng lớp của xã hội, không phần biệt Tôn giáo.
(Xem: 5317)
Học Phật là học con đường trở về với chân tâm, với Phật tánh—vốn hàm tàng nơi chính mình và tất cả chúng sinh.
(Xem: 6751)
Phật giáo nguyên thủy, xuất phát từ miền nam Ấn Độ, rồi được truyền sang Tích Lan, từ Tích Lan truyền qua Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào...
(Xem: 6977)
Sám hối không có nghĩa là hết tội nhưng nó có mãnh lực làm cho tâm mình thanh thản, nhẹ nhàng vì vậy nó giúp ngăn hay chận bớt những ác nghiệp mà mình đã tạo ra.
(Xem: 11099)
Tứ đếgiáo nghĩa cơ bản dùng để giải thích mọi hiện tượng nhân sinh vũ trụ được quy nạp từ thập nhị nhân duyên, là con đường trung đạo duy nhất giải thoát sinh tử luân hồi.
(Xem: 8075)
“Những Điều Phật Đã Dạy” là một trong những quyển sách nói về Phật học bán chạy nhất ở các nước phương Tây, được dịch ra nhiều thứ tiếng...
(Xem: 6094)
Tham sống sợ chết, đó là sự thật của người đời. Thế nhưng tại sao lại giết hại, cắt đứt sự sống của chúng sanh khác?
(Xem: 5441)
Theo nguyên tắc chung, tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗi người.
(Xem: 7101)
Quan niệm về cái gọi là "đời cha ăn mặn đời con khát nước" cho rằng có một cái gì vô hình lưu truyền cái nhân xấu do đời cha tạo ra và chuyển giao cái quả xấu do nhân xấu mang lại cho con cái.
(Xem: 6031)
Học Phật không phải chỉ biết được lời Phật dạy, biết qua kiến thức suông để đàm luận, lý luận, mà cần phải thực tập, áp dụng vào cuộc sống của mỗi người trong sự nghe thấy, tư duy và hành động.
(Xem: 6464)
Trong Phật Pháp, đức Phật đã chỉ sẵn một phương pháp, một nghệ thuật hay còn gọi là một bí quyết để có một đời sống hạnh phúc, đó là gìn giữ năm giới.
(Xem: 21156)
Vô thườngtính chất căn bản của đời sống; tất cả mọi sự vật sinh ra có điều kiện đều có tính chất của bốn giai đoạn “thành, trụ, hoại, diệt”
(Xem: 5847)
Mỉm một nụ cười, trở về với một hơi thở, bước một bước chân thảnh thơi... cũng có thể là những phép lạ giữa một cuộc sống căng thẳng và quá bận rộn.
(Xem: 7216)
Về phương diện đạo lý, Phật giáo cao hơn các hệ thống đạo đức khác, nhưng đạo đức chỉ là bước đầu chứ không phải cứu cánh của Phật giáo.
(Xem: 8647)
Bát Chánh Đạogiáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo.
(Xem: 6928)
Chữ Không của Bát Nhã đứng vững là dựa trên lý nhân duyên, nếu lý nhân duyênchân lý thì chữ Không cũng sẽ là chân lý.
(Xem: 7773)
Đây là 4 pháp, 4 nguyên tắc sống mà tiền thân chư Phật, tức chư Bồ-tát thường áp dụng để nhiếp hóa, cảm hóa chúng sanh...
(Xem: 5426)
Có những người sinh trưởng ở những nơi mà niềm tin về tái sinh là một thành phần trong nền văn hóa của họ.
(Xem: 18721)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14512)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13703)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13658)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11928)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13350)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13743)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 14031)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13339)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15133)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16251)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant