Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương hai mươi sáu

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10228)
Chương hai mươi sáu

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG HAI MƯƠI SÁU

142.ÂM:

"Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Khả dĩ tam thập nhị tướng quang Như Lai phủ ?".

 Tu Bồ Đề ngôn: "Như thị ! như thị ! Dĩ tam thập nhị tướng quang Như Lai".

NGHĨA:

"Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Có nên dùng ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai chăng?".

 Tu Bồ Đề bạch Phật: "Thiệt vậy ! thiệt vậy ! Cũng nên dùng ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai".

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Như Lai  là chơn Phật; nghĩa này trong phần thứ năm đã nói rồi, mà đến đây lại nói nữa, là vì những thính giả mới đến sau. Rồi lại nói thêm cái nghĩa vua Chuyển Luân Thánh Vương nữa.

Lý Văn Hội giải: Ông Không Sanh nghi Phật nói chúng sanh là có, cũng có thể làm Thánh đặng: còn  pháp thân  chẳng phải là không, cũng nên dùng tướng tốt đẹp ấy mà cho là  Pháp thân.

Xuyên Thiền sư giải: Lầm!

Tụng:

 

Hình cây hình giấy cùng hình đúc,

Sơn đỏ thết vàng thêm vẽ lục.

Bằng nhận tướng này là pháp thân,

Tức cười những kẻ Nam mô Bụt (Phật),

143.ÂM:

Phật ngôn: "Tu Bồ Đề! Nhược dĩ tam thập nhị tướng quang Như Lai giả, Chuyển Luân Thánh Vương tức thị Như Lai?".

 Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn: "Thế Tôn! Như ngã giải Phật sở thuyết nghĩa, bất ưng dĩ tam thập nhị tướng quang Như Lai".

NGHĨA:

Phật bảo: "Tu Bồ Đề! Nếu dùng ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai, thì Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Như Lai?".

 Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Như con mà tỏ cái nghĩa của Phật nói, thì chẳng nên dùng ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai".

 

Giải : Lục Tổ giải: Lòng đại bi của Thế Tôn e cái bịnh chấp tướng của Tu Bồ Đề chưa dứt nên hỏi lời ấy. Tu Bồ Đề chưa rõ ý Phật  mới nói như vậy như vậy, thì trước đã mê, rồi lại nói dùng 32 tướng mà cho là  Như Lai  thì lại càng mê; lìa  chơn tánh càng xa, nên  Như Lai  mới thuyết phá lòng mê rằng: "Nếu dùng 32 tướng mà cho là  Như Lai, thì vua  Chuyển Luân Thánh Vương  cũng là  Như Lai  sao?". Chuyển Luân Thánh Vương  tuy có 32 tướng nhưng không đồng với  Như Lai đặng.

Thế Tôn  dẫn lời ấy, đặng trừ bịnh chấp trước cho ông  Tu Bồ Đề, khiến cho tỏ ngộ đặng thâm thấu.

Tu Bồ Đề  bị hỏi, lòng mê liền hết, nên nói: "Như con biết đặng nghĩa của  Phật  thì chẳng nên dùng 32 tướng mà cho là Như Lai ".

Tu Bồ Đề  là bực  Đại A La Hán  nên ngộ đã thâm, đặng  pháp môn phương tiện, không lạc vào nẻo mê, xin Đức Thế Tôn trừ dứt sự  tế hoặc  đặng cho chúng sanh đời sau khỏi lầm.

Vương Nhựt Hưu giải: Phật  lại bảo ông  Tu Bồ Đề: "Nếu dùng 32 tướng mà cho là  Như Lai thì Chuyển Luân Thánh Vương tức là Như Lai sao?".

Vả chăng  Chuyển Luân Thánh Vương  là một vị  Tứ Thiên Vương  cai quản bốn châu thiên hạ: tháng giêng, tháng năm, tháng chín thì châu Nam Diêm Phù Đề; tháng hai, tháng sáu, tháng mười thì châu Tây Cù Va Ni; tháng ba, tháng bảy, tháng mười một thì châu Bắc Uất Đơn Việt; tháng tư tháng tám, tháng chạp thì châu Đông Phất Bà Đề; thường luân chuyển như bánh xe mà soi bốn châu thiên hạ, xét việc lành dữ của nhơn gian, nên gọi là  Chuyển Luân Thánh Vương. Cũng bởi nhờ nghiệp phước nhiều nên sắc thân cũng cụ túc 32 tướng in như  Phật.

Phật  đã nói: "Nếu có 32 tướng là  Phật, thì Chuyển Luân Thánh Vương  cũng là Phật ", vậy thì chẳng nên dùng 32 tướng mà cho là Phật, cho nên lại nói tiếp: chẳng nên dùng 32 tướng mà cho là Như Lai.

Lý Văn Hội giải: Chuyển Luân Thánh Vương v.v... là Phật dùng việc gần mà viện chứng, khiến cho tự hiểu.

Lai nói: Chưa thông bốn tướng, thì tâm còn sanh diệt; sanh diệt là lòng của  Chuyển Luân Thánh Vương; tuy tu 32 tịnh hạnh, lòng sanh diệt càng nhiều, hẳn không tỏ cái lòng bổn lai thanh tịnh cho nên nói: Chẳng nên dùng 32 tướng mà cho là Như Lai.

Xuyên Thiền sư giải: Lầm!

Tụng: 

 

sắc thân, không sắc thân,

Ở trên hương án ở Côn Lôn,

Bổn lai vật vật nguyên là đấy,

Hà tất Linh Sơn hỏi Thế Tôn!?

 

Như vương cầm gươm.

 

Ý KIẾN DỊCH GIẢ

Câu trả lời "Cũng nên dùng 32 tướng mà cho là Như Lai" của ông Tu Bồ Đề đó, mà sanh ra một trường ngôn luận. Nhiều Tổ cho ông Tu Bồ Đề là trước khi tánh còn mê nên mới trả lời như thế; đến khi nghe Phật nói gằn "Nếu dùng 32 tướng mà cho là Như Lai thì Chuyển Luân Thánh Vương tức là Như Lai sao?" rồi mới ngộ lại.

Theo ý kiến của chúng tôi thì ông Tu Bồ Đề không phải còn mê mà trả lời câu ấy. Bởi trong hàng thập đại đệ tử ông là Giải Không đệ nhứt, (rõ lý Không) và hội thuyết pháp Kim Cang (này) ông với Phật Tổ trước sau đã biện luận bốn lần về thân tướng (nơi phần thứ năm,mười ba và hai mươi) mỗi mỗi ông đều luận thấu lý cả thì trước kia ông đã ngộ có lẽ nào nay lại mê bao giờ? Theo sự tấn hóa thì càng ngày càng tăng tiến lên mới phải chớ càng ngày càng sụt xuống là nghĩa gì? Sách Mạnh Tử nói: Vị vân há kiều mộc nhi nhập vu u cốc (chưa hề nghe ở trên cây tuột xuống chung vào trong hang).

Chúng tôi xin mạn pháp luận như vầy: Ông Tu Bồ Đề trả lời câu ấy, là theo ý ông tưởng mấy lần trước ông cùng Phật Tổ luận về cái lý bảo thuyên đã rõ rệt, không còn chi phải luận nữa nên nay ông muốn luận về cái lý Châu Thuyên, đặng thính giả hiểu cho ráo lý, mà nói: "Nên dùng 32 tướng mà cho là Như Lai" là mượn tướng mà nói tánh, có sạ mới có lý cũng như mượn bè qua sông vậy.

Nhưng ông mới nói tới đó bị Phật Tổ không muốn nói lý ấy mà chận lại thì ông liền trả lời ngay rằng: Ông hiểu cái nghĩa của Phật "Không nên dùng 32 tướng mà cho là Như Lai".

Như vậy có nên cho ông là còn mê tánh đặng sao?!

Nên chúng tôi xin luận rằng: Ông Tu Bồ Đề không phải là còn mê tánh.

144.ÂM:

Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết kệ ngôn: "NHƯỢC DĨ SẮC KIẾN NGÃ; DĨ ÂM THINH CẦU NGÃ; THỊ NHƠN HÀNH TÀ ĐẠO, BẤT NĂNG KIẾN NHƯ LAI".

NGHĨA:

Khi ấy, Đức Thế Tôn bèn kệ rằng: "BẰNG DÙNG SẮC GỌI TA; ÂM ĐIỆU NHẬN RẰNG TA; LÀM VẬY LÀ TÀ ĐẠO, HẲN KHÔNG THẤY ĐẶNG TA".

 

 

Giải : Lưu Đẩu giải: Âm, thinh, sắc, tướng vốn tự tâm mà sanh, cái lòng phân biệt đều lạc vào tà đạo; bằng hay thấy không chỗ thấy, nghe không chỗ nghe, biết không chỗ biết, chứng không chỗ chứng, hiểu lý nhiệm ấy mới rõ  chơn tánh Như Lai.

Trong kinh Hư Hoàng Thiên Tôn, chương 44 Diệu Hạnh nói: "Thấy 32 tướng tốt, trên đầu có chín sắc hào quang, bởi ấy nên tặng cho Thiên Tôn, theo các bực Đại Tiên nhơn".

Thiên Tôn nói: "Ta chẳng phải sắc, ngươi vọng cho là sắc, ta chẳng phải tướng, ngươi vọng cho là tướng. Bằng dùng chín sắc, 72 tướng, mà xem ta, tức là bỏ không, chấp có, thì chẳng đặng dự nghe cái nghĩa lý đạo  Vô thượng ".

Sớ Sao giải: Phật bảo ông Thiện Hiện: "Ngươi chẳng nên dùng con mắt mà thấy Pháp thân của ta. Bởi cớ sao? - Là  Pháp thân  không  sắc tướng, làm sao mà thấy đặng?" - Diệu tánh của chúng sanh lại cũng như thế, không có thấy đặng.

Lại nói "Âm điệu nhận rằng ta", đó là  Pháp thân của Phật, đâu phải dùng tai mà nghe đặng. Nếu dùng tai nghe đặng thì không phải Pháp thân.

Cũng như tự tánh của chúng sanh đâu phải dùng tai mà nghe đặng. Nếu dùng tai nghe đặng tức chẳng phải  Phật tánh. Sở dĩ Phật  nói: "Bằng dùng sự nghe thấy mà cầu  Pháp thân  Ta, thì người ấy làm đạo tà, hẳn chẳng thấy  Như Lai đặng".

Pháp thân  của  Như Lai: chẳng sắc, chẳng thinh, không hình không trạng, chẳng phải dùng cái tâm mà suy nghĩ, dùng sự biết mà hiểu thấu cho đặng; ở phàm chẳng bớt, ở Thánh chẳng thêm, xem thì chẳng thấy, mà ngộ đặng rất rõ ràng.

Vương Nhựt Hưu giải: Ngã  là  chơn ngã Phật tánh; nói  Như Lai  đây là  chơn tánh Phật.

Nhược dĩ sắc kiến v.v... là chơn tánh Phật; không hình, không tướng, chẳng nên dùng hình sắc mà thấy, cũng chẳng nên dùng âm thinh mà cầu. Nếu dùng hình sắc thấy, âm thinh cầu, làm như vậy là đạo tà.

Chơn tánh là chánh, hình sắc âm thinh là tà. Nếu dùng hình sắc âm thinh mà cầu Phật, làm như vậy là đạo tà, thì đâu thấy đặng cái  chánh giác thường trụ  của  chơn tánh Phật. Cho nên nói: Hẳn không đặng thấy ta.

Như Lai  tức  chơn ngã  mà cũng tức là  Phật tánh  vậy.

Tăng Nhược Nột giải: Ngã là  Pháp thân chơn, thường, tịnh, ngã, tùy sự lưu bố mà thuyết.

Bằng dùng sắc thấy thinh cầu, lòng không chăm chỉ, đều gọi là  tà kiến  thì chẳng thấy  pháp thân  đặng.

Ông Triệu Pháp sư  có nói: "Các tướng bày trước mặt, mà không có hình, bát âm đầy bên tai, nhưng chẳng phải tiếng".

Ứng hóa chẳng phải chơn Phật, cũng chẳng phải thuyết pháp, pháp thể thanh tịnh ví như hư không, không có ngăn ngại, không lạc vào cả thảy trần cảnh.

Trần Hùng giải: Ngã  là tự tánh của chơn ngã  Pháp thân Như Lai tức là tự tánh chơn ngã. Dòm không thấy, không dùng sắc tướng mà lấy đặng: lóng không nghe, không dùng âm thinh mà cầu đặng.

Kinh Hoa Nghiêm có nói: "Sắc thân  chẳng phải  Phật, âm điệu cũng thế này".

Lại nói: "Người mà chẳng rõ cái  chơn tánh thì chẳng thấy  Phật. Chỉ phải  hồi quang phản chiếu, cứ trong tánh  mà tu, thì sẽ có Như Lai ở nơi ấy".

Nhan Bính giải: Chuyển Luân Thánh Vương, ngoài tuy đoan trang cụ túc 32 tướng, mà trong không rõ  Phật tánh, chỉ hưởng sự  lậu phước  có khi cũng phải hết.

Phật nói: "Bằng dùng 32 tướng mà cho là Như Lai, thì  Chuyển Luân Thánh Vương  tức là  Như Lai  sao?" - Ông  Tu Bồ Đề, sau khi nghe  Phật bảo mới hiểu mà nói: "Như con rõ nghĩa của Phật, thì chẳng nên dùng 32 tướng mà cho là  Như Lai ". Sở dĩ  Thế Tôn  mới nói: "Bằng dùng sắc gọi ta, âm điệu nhận rằng Ta". Ta là có tướng ta, chẳng đặng đại tự tại. Muốn dùng hình sắc âm thinh mà cầu cái tướng ta, thì người ấy làm đạo tà không  chánh kiến. Cho nên chẳng thấy Như Lai và chẳng rõ cái tánh Như như  đặng.

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng: 

Niết bàn trùm bốn đức, Đức ngã đúng chơn thường.

Tự tại xưng tôn hiệu, Oai danh rất hiển vang.

Sắc thanh đều chẳng có, Tâm thức khó so lường.

Dùng mắt xem nào thấy, Ngộ rồi mới tỏ tường.

Xuyên Thiền sư giải: Ví dầu chẳng dùng thinh cầu sắc thấy cũng chưa thấy đặng  Như Lai  ở đâu. Nói thử coi! Thế nào mà thấy đặng? Chẳng suy nghĩ, chẳng suy nghĩ!

 

Tụng:

 

Thấy sắc nghe thanh tánh thế thường,

Một từng tuyết đọng một từng sương,

Muốn cho thấu đáo do lai Phật,

Vào bụng Ma Va mới hẳn tường.

 

Ôi! Lời nói ấy đến đời sau, quăng xuống đất tiếng khua rang rảng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10357)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12247)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15399)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16680)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12303)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11576)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14350)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24709)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10744)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12551)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10461)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12411)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11710)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12102)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13072)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11505)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17520)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21534)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10729)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19346)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12480)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26164)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14458)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13783)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16923)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17694)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13227)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12592)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11680)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11693)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20585)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19131)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19666)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18783)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15141)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15111)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14043)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15580)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14610)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15921)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12952)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18525)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15839)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11131)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53779)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13049)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16661)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15507)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 20031)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15623)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15458)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15247)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10470)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20459)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15603)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13122)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20330)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13348)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29091)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11772)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant