Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sơ Lược Ý Nghĩa Chữ Không Trong Đạo Phật

04 Tháng Sáu 201511:00(Xem: 7320)
Sơ Lược Ý Nghĩa Chữ Không Trong Đạo Phật
SƠ LƯỢC Ý NGHĨA CHỮ KHÔNG
TRONG ĐẠO PHẬT

Thích Nhật Từ


Sơ Lược Ý Nghĩa Chữ Không Trong Đạo PhậtVài lời dẫn nhập

Tánh "không" (S. 'Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyết bị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất. Các tác giả chống Phật giáo thường không hiểu rõ hay ngộ nhận ý nghĩa của hai chữ sắc và không trong đạo Phật. Họ lẫn lộn hoặc lợi dụng vào hiện tượng đồng âm dị tự trong tiếng Việt và Hán Việt, đánh đồng hai khái niệm hoàn toàn khác nội dung làm một, để bôi bác giáo lý của đạo Phật. Hai khái niệm đó là (i) phủ định từ "không [có] (natthitaa) đối lập với có (atthitaa), và (ii) [tính] "không" ('suunyataa) tức tính không thực thể của mọi sự vật hiện tượng. Ngoài ra, một số tác giả cũng vận dụng lối chơi chữ ngụy biện để đánh đồng hai khái niệm "khác nhau" khác có liên hệ mật thiết với hai khái niệm trên là "có" (atthitaa) và "sắc" (ruupa). Có (atthitaa) là trợ động từ xác định, đối lập với "không có" (natthitaa), trạng từ phủ định. Sắc (ruupa) là thuật ngữ Phật giáo chỉ cho "vật thể, xác thân hay bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa." Hai khái niệm này mang 2 nội dung khác nhau hoàn toàn, ấy thế nhiều tác giảác kiến với đạo Phật thường cố giải thích sai lệch cho chúng đồng nhau để xuyên tạc Phật giáo. Sau đây là vài giải thích sơ bộ về ý nghĩa chữ không trong đạo Phật.

1. "Không" và thiền định

Trong kinh điển Nikaaya và Aagama, thuật ngữ "không" (S. 'suunyataa, P. su~n~nataa) thường được mô tả gắn liền với sự thực hành thiền định. Chẳng hạn như ở S. V. 311, từ "không" với ý nghĩa "trống rỗng, cô tịch, tỉnh lặng, vắng vẻ" được gắn liền với "phương pháp tu chánh niệm tỉnh thức qua hơi thở ra vào" (aanaapaanasati):

"Này các tỳ-kheo, hãy đi đến rừng (ara~n~naagato) hay đi đến gốc cây (rukkha-muulagato) hay đi đến một nơi trống rỗng (su~n~naagaara-gato), ngồi xếp bằng, giữ thân ngay thẳng, đặt chánh niệm trước mặt, thở ra vào một cách tỉnh thức." Cũng cần nói thêm rằng "nơi trống rỗng" (su~n~naagaara-gato) có nghĩa là nơi không có cư dân, nơi hoang vắng, nơi cô tịch, chỉ chung cho các khu đồi núi (pabbata), hang động (kandara), rừng rậm (vanapattha) hay các khoảng trống (abbhokaasa). (Xem A. IV. 436-7; A. V. 207; M. III. 115-6; S. I. 180-1, 106-7; M. I. 56; D. II. 291; A. V. 111).

Từ đó, mệnh đề cầu khiến "hãy đi đến một nơi trống rỗng" (su~n~naagaara-gato) đã mặc nhiên trở thành thành ngữ diễn tả sự thực hành thiền chánh niệm trong từng hơi thở ra vào, hay nói chung, tu tập thiền định Phật giáo. Trạng thái thiền định này thường được gọi là "an trú vào tánh không" (su~n~nataa-vihaara). Đức Phật thường tán thán rằng:

"vị thánh nào sống an trú ở nơi trống rỗng hay tánh không (su~n~na-gehaani) thì thật là siêu tuyệt. Đó là cái rỗng không của ngã (atta-su~n~nato) . . . Vị thánh sống ở nơi trống rỗng (su~n~naagaara) sẽ trở nên bất động cho đến ngay cả một sợi lông cũng không lay động" (S. I. 106-7; T. 2. 285b, 382a-b).

Phương pháp thiền quán về tánh không như vậy được gọi là "không tam-muội" ('suunyataa-samaadhi, concentrative meditation of emptiness), tức thiền quán về tính không thực thể của ngã và các sự vật. Đức Phật cũng khẳng định rằng an trú vào tính không (su~n~nataa-vihaara) chính là nơi an trú của các bậc vĩ nhân về tu tập (mahaapurisa-vihaara). (xem M. III. 293-7; T. 2. 773b-c).

2. Tánh không tức vô ngã

tánh không ('suunyataa // su~n~nataa) là tính không thực thể của ngã và các sự vật, nên tánh không còn được hiểu là "vô ngã" (anatta). Điểm quan trọng này được đức Phật dạy trong Kinh Tập qua đoạn trích sau đây:

"Này Mogharaja, hãy nên luôn luôn chánh niệm và tỉnh thức để từ bỏ quan niệm về ngã (attaanudi.t.thi"m uubacca) và hãy nhìn thế giới rỗng không, không có thực thể (su~n~nato loka"m avekkhassu)" (Sn. v. 1119).

Điều này cho thấy rằng có mối liên hệ vô cùng chặt chẽ về "sự từ bỏ một quan niệm ngã" và "nhận ra được thế giới không có thực thể." Nói cách khác thấy được tính không của thế giới được lập cước trên thấy được vô ngã. Được Aananda hỏi "thế nào gọi là thế giới không có thực thể (su~n~no-loko)?" đức Phật trả lời rằng:

Này Aananda, gọi thế giới là không có thực thể là vì thế giới không có ngã và những gì thuộc về ngã (su~n~na"m attena vaa attaniyena vaa). . . Này Aananda, con mắt không có/phải ngã, không có những gì thuộc về ngã (cakkhu su~n~na"m attena vaa attaniyena vaa). Sắc thể (ruupa) không có ngã và những gì thuộc về ngã. Nhận thức của con mắt (cakkhu-vi~n~na.na"m) không có ngã và những gì thuộc về ngã. Sự tiếp xúc của con mắt cũng không có ngã và những gì thuộc về ngã. Tương tự, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng không có ngã, những gì thuộc về ngã. Các cảm giác (vedayita"m) đau khổ, hạnh phúc hay trung tính phát sanh từ sự tiếp xúc của ý (manosamphassa-paccayaa) cũng không có ngã và những gì thuộc về ngã (S. IV. 54).

Cũng cần nói thêm rằng trong triết học Phật giáo, khái niệm thế giới (loka) chỉ cho 6 giác quan, 6 đối tượng của giác quan, 6 nhận thức của giác quan, 6 tiếp xúc và 6 cảm giác từ sự tiếp xúc của 6 giác quan với 6 đối tượng tương ứng của chúng. Do đó, "thế giới khôngthực thể (vô ngã) và không có những gì thuộc về ngã" có nghĩa là "6 giác quan, 6 đối tượng của giác quan, 6 nhận thức của giác quan, 6 tiếp xúc và 6 cảm giác từ sự tiếp xúc của 6 giác quan với 6 đối tượng tương ứng của chúng" đều không phải ngã, không có ngã và những gì thuộc về ngã. Nói cách khác "tính không" của thế giới hay các sự vật cũng chính là "tính vô ngã, tính không thực thể của ngã hay những gì thuộc về ngã."

3. Tánh không tức duyên khởi, vô thường, vô ngã

Điểm quan trọng mà những người xuyên tạc Phật giáo không biết đến đó là tánh không ('suunyataa // su~n~nataa) cũng chính là duyên khởi (pa.ticca-samuppaada), và ngược lại, cái gì duyên khởi cái đó không thực thể. Theo Phật giáo, tính duyên khởi của mọi sự vật hiện tượng cũng chính là đặc tính của sự vật (S. dharma-sthititaa, P. dhamma.t.thitataa). Vì duyên khởi cũng chính là tính "không" cho nên tính "không" chính là đặc tính của sự vật. Nói cách khác, đặc tính của sự vật là không thực thể (không, 'suunyataa) hay duyên khởi hay vô ngã. Chính vì thế đức Phật đã xác định rằng "những lời dạy của đức Như Lai sâu sắc, thâm áo, siêu tuyệt (lokuttaraa) đều có liên hệ đến tính không (su~n~nata-pa.tisa"myuttaa)" (S. II. 267; T. 2. 345b). Ở một đoạn kinh khác, sự liên hệ giữa tính khôngduyên khởi được xem là đặc điểm của giáo pháp của đức Phật, khác hẳn với giáo pháp của Bà-la-môn và triết thuyết ngoại đạo:

"Ta [Phật Thích-ca] dạy cho các tỳ-kheo giáo pháp này, thánh thiện, siêu việt, có liên hệ đến tính khôngphù hợp với luật duyên khởi" (S. II. 25, 267; T. 2. 84b, 345b).

Theo lời Phật dạy, cái gì duyên khởi (pa.ticcasamuppanna) cái đó là vô thường (anicca) và vô ngã (anatta). Nhận thức này được diễn tả qua mối quan hệ không gianthời gian của các sự vật. Về phương diện không gian, tất cả các sự vật là không thực thể hay vô ngã (sabbe dhammaa anattaa), trong khi về phương diện thời gian, tất cả các sự vật duyên khởi đều là vô thường" (sabbe sa"nkhaaraa aniccaa). Phương diện đôi "vô thường và vô ngã" của sự vật sẽ dẫn đến sự không thỏa mãn "(sabbe sa"nkhaaraa dukkhaa)" (xem Dhp. 277-9. Cf. S. II. 26f; A. I. 286; GS. I. 264 ). Triết lý này được xem là đặc điểm duy nhất của giáo pháp của Phật Thích-ca (M. I. 380: buddhaana"m saamukka"msikaa desanaa), so với các học thuyết của các tôn giáo khác. Nói tóm lại, cái gì duyên khởi cái đó là tính "không," và cái gì duyên khởi cái đó vô thườngvô ngã. Cho nên, cái gì tính không cái đó là vô thườngvô ngã, và ngược lại, cái gì vô thường, vô ngã, cái đó là duyên khởitính không. Chính vì thế, kinh Tăng Nhất A-hàm đã định nghĩa: "Tính không là ‘cái này không phải bản ngã của tôi, cái này không phải là tôi, và cái này không phải thuộc về tôi" (T. 2. 715b-c)

4. Tánh khôngtrung đạo

Theo đức Phật, phương pháp thiền quán về tính khôngduyên khởi của các sự vật hiện tượng là một trong các cách trừ diệt các chấp thủ, tham ái và dẫn đến sự an tịnh các hành một cách có hiệu quả. Sự an tịnh hành, chấm dứt tham ái, hướng đến ly thamdiệt khổcon đường dẫn đến niết-bàn (sabbasa"nkhaara-samatho sabbupadhi-pa.tinissaggo ta"nha-kkhayo viraago nirodho: nibbaana"m, xem S. I. 136; M. I. 167; T. 2. 593a). Quá trình nhận thức này được diễn ra qua hai giai đoạn, trước là nhận thức được tính chất của các pháp và sau là nhận chân được niết-bàn (pubbe kho Susiima dhamma.t.thiti~n~naa.na"m pacchaa nibbaane ~naa.nanti, xem S. II. 124; T. 2. 97b). Nhận thức được tính chất của sự vật (dhamma-.thiti-~naa.na) tức là nhận thức được các sự vật là duyên khởi hay tính không (xem S. II. 25; T. 2. 84b). Kinh điển Phật giáo gọi người có được trí tuệ về tính chất duyên khởitính không của các pháp là người giải thoát bằng trí tuệ (P. pa~n~naa-vimutta, S. praj~naa-vimukta), hay người thể nhập được "trung đạo" (P. majjhimaa pa.tipadaa, S. madhyamaa pratipadaa). Nói cách khác, thấy được tính duyên khởitánh không là thấy được "trung đạo."

Đức Phật gọi duyên khởicon đường trung đạo (majjhimaa pa.tipadaa) vì nó tránh được hai cực đoan quan niệm (dvaya-nissito) của hiện hữu (atthitaa) và phi hiện hữu (natthitaa). Cho rằng mọi sự vật hiện hữu (sabba"m atthiiti) là một cực đoan (eko anto) dẫn đến chủ trương thường kiến (sassatadi.t.thi). Cho rằng mọi sự vật không hiện hữu (sabba"m natthiiti) là một cực đoan đối lập (dutiyo anto) dẫn đến chủ trương đoạn diệt luận (ucchedadi.t.thi). Từ bỏ hai cực đoan (ubho ante anupagamma) này, đức Phật giảng trung đạo hay duyên khởi: "cái này có nên cái kia có, cái này sanh nên các kia sanh, tức do vô minh nên hành hiện hữu; do hành nên thức hiện hữu; do thức nên tổ hợp tâm vật lý hiện hữu . . . đây là toàn bộ khối đau khổ." Tương tự, do cái này không có nên cái kia không có và do cái này hoại diệt nên cái kia hoại diệt, tức do vô minh diệt nên hành diệt, do hành diệt nên thức diệt . . . đó là sự chấm dứt toàn bộ khối đau khổ" (S. II. 17, 75).

5. Phương pháp quán "không, giả và trung"

Chính vì tánh không ('suunyataa // su~n~nataa) là duyên khởi (S. pratiityasamutpanna), là vô ngã, là không thực thể, là khái niệm mặc ước (giả danh, S. praj~naptir upaadaaya), và là con đường trung đạo (S. madhyamaa pratipat) để thoát khỏi các cực đoan quan niệm, phương pháp quán của Trung Quán Luận (Madhyamaka-Kaarikaa 'Saastra) và các tông phái lập cước trên Trung Quán Luận có tên gọi là "không, giả, trung." Khái niệm "giả" trong "giả danh" ở đây không có nghĩa là "giả" đối lập với "thật" mà là "tính mặc ước" tức "tính không thực thể" của các sự vật hiện tượng. Bồ-tát Long Thọ phát biểu trong Trung Quán Luận của mình về mối quan hệ ba này như sau:

Ya.h pratiiyasamupaada.h 'suunyataa"m taa"m pracak.smahe/ saa praj~naptir upaadaaya pratipat saiva madhyamaa// Apratiitya samutpanno dharma.h ka'scinna vidyate/ yasmaat tasmaad a'suunyo hi dharma.h ka'scin na vidyate// [kệ 18-9, chương xxiv].

Ngài Cưu-ma-la-thập dịch sát ra Hán văn:

Chúng nhân duyên sanh pháp, ngã thuyết tức thị "không," diệc vi thị "giả danh," diệc thị "trung đạo" nghĩa. Vị tằng hữu nhất pháp, bất tùng nhân duyên sanh, thị cố nhất thiết pháp, vô bất thị "không" giả."

Tạm dịch ra tiếng Việt:

Tất cả các sự vật hiện tượng đều do duyên mà hình thành, do đó, tôi gọi đó là không (tức không thực thể) hay cũng còn gọi là giả danh hay trung đạo. Vì chưa từng có một sự vật hiện tượng nào mà không sanh ra từ duyên khởi, cho nên tất cả các sự vật hiện tượng đều là không."

Quán tánh không của con người và các sự vật hiện tượng cũng chính là quán tính không thực thể hay mặc ước (giả danh) của chúng hay cũng chính là hướng đến con đường duyên khởi trung đạo.

6. Ý nghĩa chữ "Sắc" trong "Sắc tức thị Không"

Chữ "không" như vừa nói không có nghĩa là "không có" (natthitaa) đối lập với "có" (atthitaa) mà là "tính không thực thể, duyên khởi, vô thường và vô ngã" của các sự vật hiện tượng trong thế giới. Chữ "sắc" (ruupa) trong các mệnh đề "sắc tức thị không, không tức thị sắc" trong Bát-Nhã Tâm Kinh hoàn toàn không có nghĩa là "có" (atthitaa) như nhiều tác giả chống đạo Phật đã ngộ nhậnxuyên tạc. Sắc là thuật ngữ Phật giáo chỉ cho các hình thái hay tổ hợp vật chất (P. ruupakkhandha, S. ruupaskandha, material form / aggregate) nói chung. Sắc hay sắc uẩn (P. ruupakkhandha, S. ruupaskandha) có thể dịch nôm na là "hình thể" hay "vật chất," hay "hình hài con người" trong ngữ cảnh "sắc uẩn trong ngũ uẩn." Sắc bao gồm 4 yếu tố căn bản (tứ đại, P=S mahaabhuuta-ruupa) là đất (pa.thavi//p.rthivii), nước (aapa//aap), lửa (teja//tejas) và gió (vaaya//vaayu). Bốn chất này cung ứng nguyên tử tạo thành các đặc tính (S. lak.sa.na) hay hoạt động (S. v.rtti) của cơ thể con người, chẳng hạn như chất rắn (S. khakkha.tatva), chất lỏng (S. dravatva), nhiệt lượng (S. u.s.nataa) và không khí hay sự vận động (S. iira.nakarman/ laghusamudiira.natva). Từ 4 yếu tố vật chất này có các yếu tố phát sanh (upaadaaya-ruupa) như 5 cơ quan nhận thức (indriya), đó là mắt (cakkhu//cak.sur), tai (sota//'srotra), mũi (ghaana//ghraa.na), lưỡi (jivhaa//jihvaa), thân (P=S kaaya), và 5 đối tượng của chúng là hình thể (P=S ruupa), âm thanh (sadda//'sabda), mùi (P=S gandha), vị (P=S rasa), vật xúc chạm (pho.t.thabba//spra.s.tavya), và các bộ phận của thân thể.

Theo đức Phật, nhóm tổ hợp vật chất (sắc uẩn) trong 5 nhóm nhân tính (năm uẩn) được hình thành từ các yếu tố vật lý, được tinh cha trứng mẹ tạo ra, được thức ăn nuôi sống, luôn trong tình trạng thay đổi liên tục. Khi phân tích về sắc hay sắc uẩn, đức Phật không thừa nhận có một thực thể (substantial entity) độc lậptrái lại ngài khẳng định tổ hợp vật chất (sắc uẩn) này chỉ đóng vai trò chức năngtùy thuộc vào mối quan hệ tương duyên và nhân quả với các hoạt động của tinh thần (naama-kkhandha) đó là cảm thọ (thọ), ý niệm hóa (tưởng), sự vận hành (hành) và nhận thức (thức). Chính vì sắc là tùy thuộc, duyên khởi nên chúng không có thực thể (không): sắc tức thị không. Nói dễ hiểu hơn, tất cả các hình thái vật chất (sắc) đều là duyên khởi, vô ngã, và không có thực thể (không). Chân lý này cũng đúng với quy trình ngược lại là "không tức thị sắc" có nghĩa là "các sự vật duyên khởi, không thực thể (không) cũng chính là các hình thái tổ hợp vật chất (sắc) mà thôi. Nói đến vật chất (sắc) là nói đến tính vô ngã, vô thườngduyên khởi (không) của chúng, cho nên nói rằng: "sắc bất dị không." Tương tự theo chiều ngược lại, đề cập đến tính vô ngã, vô thườngduyên khởi của các sự vật (không) cũng chính là nói đến bản chất của vật chất (sắc) không có thực thể, cho nên nói là "không bất dị sắc."

Nói tóm lại, trong Phật giáo, khái niệm "sắc" (ruupa) không thể bị đồng hóa với "có" (atthitaa), và tánh "không" ('s'uunyataa) không thể bị đồng hóa với "không có" (natthitaa). Hai cặp từ này có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Do đó các giải thích mang tính cách lạc dẫn cũng như xuyên tạc Phật giáo của người khác đạo về ý nghĩa chữ "không" như "ngoan không" hay "không có gì" không chỉ là các giải thích sai lầm mà còn thiếu hẳn cơ sở để tồn tại.

Viết tắt
A. = A"nguttara-Nikaaya, I-V, ed. R. Morris, E. Hardy, C. A. F. Rhys Davids. (London: PTS, 1885-1900)
D. = Diighanikaaya, I-III, ed. T. W. Rhys David and J. E. Carpenter, (London: PTS, 1889-1910)
M. = Majjhimanikaaya, I-IV, ed. V. Trenckner, R. Chalmers, Mrs. Rhys Davids. (London: PTS, 1888-1902)
S. = Sa"myuttanikaaya, I-V, ed. L. Féer and Mrs. Rhys Davids. (London: PTS, 1884-1898)
T. = Taishoo Shinshuu Daizookyoo, ed. J. Takakusu. (Japan: 1924-32)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 37308)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28327)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28910)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 27201)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 34722)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27834)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 33328)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28591)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30105)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25505)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 51354)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26764)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28650)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 24377)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27496)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31984)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30228)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27743)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35494)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27481)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 31818)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 24209)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23060)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26690)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28278)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29443)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33351)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21800)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 20655)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22273)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 24023)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22892)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23252)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30466)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 21807)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 19297)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20191)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 32778)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 34064)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27807)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 23867)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 23253)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 28223)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 19242)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24639)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21463)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23899)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 29477)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 31065)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25374)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 20179)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 19062)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20185)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20082)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 19441)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22612)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 31166)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 19739)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 19727)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24036)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant