Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sơ Lược Ý Nghĩa Chữ Không Trong Đạo Phật

04 Tháng Sáu 201511:00(Xem: 7309)
Sơ Lược Ý Nghĩa Chữ Không Trong Đạo Phật
SƠ LƯỢC Ý NGHĨA CHỮ KHÔNG
TRONG ĐẠO PHẬT

Thích Nhật Từ


Sơ Lược Ý Nghĩa Chữ Không Trong Đạo PhậtVài lời dẫn nhập

Tánh "không" (S. 'Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyết bị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất. Các tác giả chống Phật giáo thường không hiểu rõ hay ngộ nhận ý nghĩa của hai chữ sắc và không trong đạo Phật. Họ lẫn lộn hoặc lợi dụng vào hiện tượng đồng âm dị tự trong tiếng Việt và Hán Việt, đánh đồng hai khái niệm hoàn toàn khác nội dung làm một, để bôi bác giáo lý của đạo Phật. Hai khái niệm đó là (i) phủ định từ "không [có] (natthitaa) đối lập với có (atthitaa), và (ii) [tính] "không" ('suunyataa) tức tính không thực thể của mọi sự vật hiện tượng. Ngoài ra, một số tác giả cũng vận dụng lối chơi chữ ngụy biện để đánh đồng hai khái niệm "khác nhau" khác có liên hệ mật thiết với hai khái niệm trên là "có" (atthitaa) và "sắc" (ruupa). Có (atthitaa) là trợ động từ xác định, đối lập với "không có" (natthitaa), trạng từ phủ định. Sắc (ruupa) là thuật ngữ Phật giáo chỉ cho "vật thể, xác thân hay bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa." Hai khái niệm này mang 2 nội dung khác nhau hoàn toàn, ấy thế nhiều tác giảác kiến với đạo Phật thường cố giải thích sai lệch cho chúng đồng nhau để xuyên tạc Phật giáo. Sau đây là vài giải thích sơ bộ về ý nghĩa chữ không trong đạo Phật.

1. "Không" và thiền định

Trong kinh điển Nikaaya và Aagama, thuật ngữ "không" (S. 'suunyataa, P. su~n~nataa) thường được mô tả gắn liền với sự thực hành thiền định. Chẳng hạn như ở S. V. 311, từ "không" với ý nghĩa "trống rỗng, cô tịch, tỉnh lặng, vắng vẻ" được gắn liền với "phương pháp tu chánh niệm tỉnh thức qua hơi thở ra vào" (aanaapaanasati):

"Này các tỳ-kheo, hãy đi đến rừng (ara~n~naagato) hay đi đến gốc cây (rukkha-muulagato) hay đi đến một nơi trống rỗng (su~n~naagaara-gato), ngồi xếp bằng, giữ thân ngay thẳng, đặt chánh niệm trước mặt, thở ra vào một cách tỉnh thức." Cũng cần nói thêm rằng "nơi trống rỗng" (su~n~naagaara-gato) có nghĩa là nơi không có cư dân, nơi hoang vắng, nơi cô tịch, chỉ chung cho các khu đồi núi (pabbata), hang động (kandara), rừng rậm (vanapattha) hay các khoảng trống (abbhokaasa). (Xem A. IV. 436-7; A. V. 207; M. III. 115-6; S. I. 180-1, 106-7; M. I. 56; D. II. 291; A. V. 111).

Từ đó, mệnh đề cầu khiến "hãy đi đến một nơi trống rỗng" (su~n~naagaara-gato) đã mặc nhiên trở thành thành ngữ diễn tả sự thực hành thiền chánh niệm trong từng hơi thở ra vào, hay nói chung, tu tập thiền định Phật giáo. Trạng thái thiền định này thường được gọi là "an trú vào tánh không" (su~n~nataa-vihaara). Đức Phật thường tán thán rằng:

"vị thánh nào sống an trú ở nơi trống rỗng hay tánh không (su~n~na-gehaani) thì thật là siêu tuyệt. Đó là cái rỗng không của ngã (atta-su~n~nato) . . . Vị thánh sống ở nơi trống rỗng (su~n~naagaara) sẽ trở nên bất động cho đến ngay cả một sợi lông cũng không lay động" (S. I. 106-7; T. 2. 285b, 382a-b).

Phương pháp thiền quán về tánh không như vậy được gọi là "không tam-muội" ('suunyataa-samaadhi, concentrative meditation of emptiness), tức thiền quán về tính không thực thể của ngã và các sự vật. Đức Phật cũng khẳng định rằng an trú vào tính không (su~n~nataa-vihaara) chính là nơi an trú của các bậc vĩ nhân về tu tập (mahaapurisa-vihaara). (xem M. III. 293-7; T. 2. 773b-c).

2. Tánh không tức vô ngã

tánh không ('suunyataa // su~n~nataa) là tính không thực thể của ngã và các sự vật, nên tánh không còn được hiểu là "vô ngã" (anatta). Điểm quan trọng này được đức Phật dạy trong Kinh Tập qua đoạn trích sau đây:

"Này Mogharaja, hãy nên luôn luôn chánh niệm và tỉnh thức để từ bỏ quan niệm về ngã (attaanudi.t.thi"m uubacca) và hãy nhìn thế giới rỗng không, không có thực thể (su~n~nato loka"m avekkhassu)" (Sn. v. 1119).

Điều này cho thấy rằng có mối liên hệ vô cùng chặt chẽ về "sự từ bỏ một quan niệm ngã" và "nhận ra được thế giới không có thực thể." Nói cách khác thấy được tính không của thế giới được lập cước trên thấy được vô ngã. Được Aananda hỏi "thế nào gọi là thế giới không có thực thể (su~n~no-loko)?" đức Phật trả lời rằng:

Này Aananda, gọi thế giới là không có thực thể là vì thế giới không có ngã và những gì thuộc về ngã (su~n~na"m attena vaa attaniyena vaa). . . Này Aananda, con mắt không có/phải ngã, không có những gì thuộc về ngã (cakkhu su~n~na"m attena vaa attaniyena vaa). Sắc thể (ruupa) không có ngã và những gì thuộc về ngã. Nhận thức của con mắt (cakkhu-vi~n~na.na"m) không có ngã và những gì thuộc về ngã. Sự tiếp xúc của con mắt cũng không có ngã và những gì thuộc về ngã. Tương tự, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng không có ngã, những gì thuộc về ngã. Các cảm giác (vedayita"m) đau khổ, hạnh phúc hay trung tính phát sanh từ sự tiếp xúc của ý (manosamphassa-paccayaa) cũng không có ngã và những gì thuộc về ngã (S. IV. 54).

Cũng cần nói thêm rằng trong triết học Phật giáo, khái niệm thế giới (loka) chỉ cho 6 giác quan, 6 đối tượng của giác quan, 6 nhận thức của giác quan, 6 tiếp xúc và 6 cảm giác từ sự tiếp xúc của 6 giác quan với 6 đối tượng tương ứng của chúng. Do đó, "thế giới khôngthực thể (vô ngã) và không có những gì thuộc về ngã" có nghĩa là "6 giác quan, 6 đối tượng của giác quan, 6 nhận thức của giác quan, 6 tiếp xúc và 6 cảm giác từ sự tiếp xúc của 6 giác quan với 6 đối tượng tương ứng của chúng" đều không phải ngã, không có ngã và những gì thuộc về ngã. Nói cách khác "tính không" của thế giới hay các sự vật cũng chính là "tính vô ngã, tính không thực thể của ngã hay những gì thuộc về ngã."

3. Tánh không tức duyên khởi, vô thường, vô ngã

Điểm quan trọng mà những người xuyên tạc Phật giáo không biết đến đó là tánh không ('suunyataa // su~n~nataa) cũng chính là duyên khởi (pa.ticca-samuppaada), và ngược lại, cái gì duyên khởi cái đó không thực thể. Theo Phật giáo, tính duyên khởi của mọi sự vật hiện tượng cũng chính là đặc tính của sự vật (S. dharma-sthititaa, P. dhamma.t.thitataa). Vì duyên khởi cũng chính là tính "không" cho nên tính "không" chính là đặc tính của sự vật. Nói cách khác, đặc tính của sự vật là không thực thể (không, 'suunyataa) hay duyên khởi hay vô ngã. Chính vì thế đức Phật đã xác định rằng "những lời dạy của đức Như Lai sâu sắc, thâm áo, siêu tuyệt (lokuttaraa) đều có liên hệ đến tính không (su~n~nata-pa.tisa"myuttaa)" (S. II. 267; T. 2. 345b). Ở một đoạn kinh khác, sự liên hệ giữa tính khôngduyên khởi được xem là đặc điểm của giáo pháp của đức Phật, khác hẳn với giáo pháp của Bà-la-môn và triết thuyết ngoại đạo:

"Ta [Phật Thích-ca] dạy cho các tỳ-kheo giáo pháp này, thánh thiện, siêu việt, có liên hệ đến tính khôngphù hợp với luật duyên khởi" (S. II. 25, 267; T. 2. 84b, 345b).

Theo lời Phật dạy, cái gì duyên khởi (pa.ticcasamuppanna) cái đó là vô thường (anicca) và vô ngã (anatta). Nhận thức này được diễn tả qua mối quan hệ không gianthời gian của các sự vật. Về phương diện không gian, tất cả các sự vật là không thực thể hay vô ngã (sabbe dhammaa anattaa), trong khi về phương diện thời gian, tất cả các sự vật duyên khởi đều là vô thường" (sabbe sa"nkhaaraa aniccaa). Phương diện đôi "vô thường và vô ngã" của sự vật sẽ dẫn đến sự không thỏa mãn "(sabbe sa"nkhaaraa dukkhaa)" (xem Dhp. 277-9. Cf. S. II. 26f; A. I. 286; GS. I. 264 ). Triết lý này được xem là đặc điểm duy nhất của giáo pháp của Phật Thích-ca (M. I. 380: buddhaana"m saamukka"msikaa desanaa), so với các học thuyết của các tôn giáo khác. Nói tóm lại, cái gì duyên khởi cái đó là tính "không," và cái gì duyên khởi cái đó vô thườngvô ngã. Cho nên, cái gì tính không cái đó là vô thườngvô ngã, và ngược lại, cái gì vô thường, vô ngã, cái đó là duyên khởitính không. Chính vì thế, kinh Tăng Nhất A-hàm đã định nghĩa: "Tính không là ‘cái này không phải bản ngã của tôi, cái này không phải là tôi, và cái này không phải thuộc về tôi" (T. 2. 715b-c)

4. Tánh khôngtrung đạo

Theo đức Phật, phương pháp thiền quán về tính khôngduyên khởi của các sự vật hiện tượng là một trong các cách trừ diệt các chấp thủ, tham ái và dẫn đến sự an tịnh các hành một cách có hiệu quả. Sự an tịnh hành, chấm dứt tham ái, hướng đến ly thamdiệt khổcon đường dẫn đến niết-bàn (sabbasa"nkhaara-samatho sabbupadhi-pa.tinissaggo ta"nha-kkhayo viraago nirodho: nibbaana"m, xem S. I. 136; M. I. 167; T. 2. 593a). Quá trình nhận thức này được diễn ra qua hai giai đoạn, trước là nhận thức được tính chất của các pháp và sau là nhận chân được niết-bàn (pubbe kho Susiima dhamma.t.thiti~n~naa.na"m pacchaa nibbaane ~naa.nanti, xem S. II. 124; T. 2. 97b). Nhận thức được tính chất của sự vật (dhamma-.thiti-~naa.na) tức là nhận thức được các sự vật là duyên khởi hay tính không (xem S. II. 25; T. 2. 84b). Kinh điển Phật giáo gọi người có được trí tuệ về tính chất duyên khởitính không của các pháp là người giải thoát bằng trí tuệ (P. pa~n~naa-vimutta, S. praj~naa-vimukta), hay người thể nhập được "trung đạo" (P. majjhimaa pa.tipadaa, S. madhyamaa pratipadaa). Nói cách khác, thấy được tính duyên khởitánh không là thấy được "trung đạo."

Đức Phật gọi duyên khởicon đường trung đạo (majjhimaa pa.tipadaa) vì nó tránh được hai cực đoan quan niệm (dvaya-nissito) của hiện hữu (atthitaa) và phi hiện hữu (natthitaa). Cho rằng mọi sự vật hiện hữu (sabba"m atthiiti) là một cực đoan (eko anto) dẫn đến chủ trương thường kiến (sassatadi.t.thi). Cho rằng mọi sự vật không hiện hữu (sabba"m natthiiti) là một cực đoan đối lập (dutiyo anto) dẫn đến chủ trương đoạn diệt luận (ucchedadi.t.thi). Từ bỏ hai cực đoan (ubho ante anupagamma) này, đức Phật giảng trung đạo hay duyên khởi: "cái này có nên cái kia có, cái này sanh nên các kia sanh, tức do vô minh nên hành hiện hữu; do hành nên thức hiện hữu; do thức nên tổ hợp tâm vật lý hiện hữu . . . đây là toàn bộ khối đau khổ." Tương tự, do cái này không có nên cái kia không có và do cái này hoại diệt nên cái kia hoại diệt, tức do vô minh diệt nên hành diệt, do hành diệt nên thức diệt . . . đó là sự chấm dứt toàn bộ khối đau khổ" (S. II. 17, 75).

5. Phương pháp quán "không, giả và trung"

Chính vì tánh không ('suunyataa // su~n~nataa) là duyên khởi (S. pratiityasamutpanna), là vô ngã, là không thực thể, là khái niệm mặc ước (giả danh, S. praj~naptir upaadaaya), và là con đường trung đạo (S. madhyamaa pratipat) để thoát khỏi các cực đoan quan niệm, phương pháp quán của Trung Quán Luận (Madhyamaka-Kaarikaa 'Saastra) và các tông phái lập cước trên Trung Quán Luận có tên gọi là "không, giả, trung." Khái niệm "giả" trong "giả danh" ở đây không có nghĩa là "giả" đối lập với "thật" mà là "tính mặc ước" tức "tính không thực thể" của các sự vật hiện tượng. Bồ-tát Long Thọ phát biểu trong Trung Quán Luận của mình về mối quan hệ ba này như sau:

Ya.h pratiiyasamupaada.h 'suunyataa"m taa"m pracak.smahe/ saa praj~naptir upaadaaya pratipat saiva madhyamaa// Apratiitya samutpanno dharma.h ka'scinna vidyate/ yasmaat tasmaad a'suunyo hi dharma.h ka'scin na vidyate// [kệ 18-9, chương xxiv].

Ngài Cưu-ma-la-thập dịch sát ra Hán văn:

Chúng nhân duyên sanh pháp, ngã thuyết tức thị "không," diệc vi thị "giả danh," diệc thị "trung đạo" nghĩa. Vị tằng hữu nhất pháp, bất tùng nhân duyên sanh, thị cố nhất thiết pháp, vô bất thị "không" giả."

Tạm dịch ra tiếng Việt:

Tất cả các sự vật hiện tượng đều do duyên mà hình thành, do đó, tôi gọi đó là không (tức không thực thể) hay cũng còn gọi là giả danh hay trung đạo. Vì chưa từng có một sự vật hiện tượng nào mà không sanh ra từ duyên khởi, cho nên tất cả các sự vật hiện tượng đều là không."

Quán tánh không của con người và các sự vật hiện tượng cũng chính là quán tính không thực thể hay mặc ước (giả danh) của chúng hay cũng chính là hướng đến con đường duyên khởi trung đạo.

6. Ý nghĩa chữ "Sắc" trong "Sắc tức thị Không"

Chữ "không" như vừa nói không có nghĩa là "không có" (natthitaa) đối lập với "có" (atthitaa) mà là "tính không thực thể, duyên khởi, vô thường và vô ngã" của các sự vật hiện tượng trong thế giới. Chữ "sắc" (ruupa) trong các mệnh đề "sắc tức thị không, không tức thị sắc" trong Bát-Nhã Tâm Kinh hoàn toàn không có nghĩa là "có" (atthitaa) như nhiều tác giả chống đạo Phật đã ngộ nhậnxuyên tạc. Sắc là thuật ngữ Phật giáo chỉ cho các hình thái hay tổ hợp vật chất (P. ruupakkhandha, S. ruupaskandha, material form / aggregate) nói chung. Sắc hay sắc uẩn (P. ruupakkhandha, S. ruupaskandha) có thể dịch nôm na là "hình thể" hay "vật chất," hay "hình hài con người" trong ngữ cảnh "sắc uẩn trong ngũ uẩn." Sắc bao gồm 4 yếu tố căn bản (tứ đại, P=S mahaabhuuta-ruupa) là đất (pa.thavi//p.rthivii), nước (aapa//aap), lửa (teja//tejas) và gió (vaaya//vaayu). Bốn chất này cung ứng nguyên tử tạo thành các đặc tính (S. lak.sa.na) hay hoạt động (S. v.rtti) của cơ thể con người, chẳng hạn như chất rắn (S. khakkha.tatva), chất lỏng (S. dravatva), nhiệt lượng (S. u.s.nataa) và không khí hay sự vận động (S. iira.nakarman/ laghusamudiira.natva). Từ 4 yếu tố vật chất này có các yếu tố phát sanh (upaadaaya-ruupa) như 5 cơ quan nhận thức (indriya), đó là mắt (cakkhu//cak.sur), tai (sota//'srotra), mũi (ghaana//ghraa.na), lưỡi (jivhaa//jihvaa), thân (P=S kaaya), và 5 đối tượng của chúng là hình thể (P=S ruupa), âm thanh (sadda//'sabda), mùi (P=S gandha), vị (P=S rasa), vật xúc chạm (pho.t.thabba//spra.s.tavya), và các bộ phận của thân thể.

Theo đức Phật, nhóm tổ hợp vật chất (sắc uẩn) trong 5 nhóm nhân tính (năm uẩn) được hình thành từ các yếu tố vật lý, được tinh cha trứng mẹ tạo ra, được thức ăn nuôi sống, luôn trong tình trạng thay đổi liên tục. Khi phân tích về sắc hay sắc uẩn, đức Phật không thừa nhận có một thực thể (substantial entity) độc lậptrái lại ngài khẳng định tổ hợp vật chất (sắc uẩn) này chỉ đóng vai trò chức năngtùy thuộc vào mối quan hệ tương duyên và nhân quả với các hoạt động của tinh thần (naama-kkhandha) đó là cảm thọ (thọ), ý niệm hóa (tưởng), sự vận hành (hành) và nhận thức (thức). Chính vì sắc là tùy thuộc, duyên khởi nên chúng không có thực thể (không): sắc tức thị không. Nói dễ hiểu hơn, tất cả các hình thái vật chất (sắc) đều là duyên khởi, vô ngã, và không có thực thể (không). Chân lý này cũng đúng với quy trình ngược lại là "không tức thị sắc" có nghĩa là "các sự vật duyên khởi, không thực thể (không) cũng chính là các hình thái tổ hợp vật chất (sắc) mà thôi. Nói đến vật chất (sắc) là nói đến tính vô ngã, vô thườngduyên khởi (không) của chúng, cho nên nói rằng: "sắc bất dị không." Tương tự theo chiều ngược lại, đề cập đến tính vô ngã, vô thườngduyên khởi của các sự vật (không) cũng chính là nói đến bản chất của vật chất (sắc) không có thực thể, cho nên nói là "không bất dị sắc."

Nói tóm lại, trong Phật giáo, khái niệm "sắc" (ruupa) không thể bị đồng hóa với "có" (atthitaa), và tánh "không" ('s'uunyataa) không thể bị đồng hóa với "không có" (natthitaa). Hai cặp từ này có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Do đó các giải thích mang tính cách lạc dẫn cũng như xuyên tạc Phật giáo của người khác đạo về ý nghĩa chữ "không" như "ngoan không" hay "không có gì" không chỉ là các giải thích sai lầm mà còn thiếu hẳn cơ sở để tồn tại.

Viết tắt
A. = A"nguttara-Nikaaya, I-V, ed. R. Morris, E. Hardy, C. A. F. Rhys Davids. (London: PTS, 1885-1900)
D. = Diighanikaaya, I-III, ed. T. W. Rhys David and J. E. Carpenter, (London: PTS, 1889-1910)
M. = Majjhimanikaaya, I-IV, ed. V. Trenckner, R. Chalmers, Mrs. Rhys Davids. (London: PTS, 1888-1902)
S. = Sa"myuttanikaaya, I-V, ed. L. Féer and Mrs. Rhys Davids. (London: PTS, 1884-1898)
T. = Taishoo Shinshuu Daizookyoo, ed. J. Takakusu. (Japan: 1924-32)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22481)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21770)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23336)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21193)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21774)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22239)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23618)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20433)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20057)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21951)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24761)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18997)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 30988)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24000)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27767)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26530)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38146)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18807)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19994)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19055)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23183)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22933)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18718)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15852)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18867)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19695)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20169)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19962)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16430)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16929)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39270)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26087)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20110)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18865)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24075)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29155)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22907)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30971)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21017)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26870)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26271)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23347)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19826)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15843)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19870)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28985)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20697)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19456)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30523)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36453)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33248)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35583)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21000)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21931)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25273)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25813)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31276)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant