Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Điển Và Căn Mạng Đời Người

21 Tháng Năm 201518:10(Xem: 6026)
Kinh Điển Và Căn Mạng Đời Người
KINH ĐIỂN VÀ CĂN MẠNG ĐỜI NGƯỜI

Nhụy Nguyên


Kinh Điển Và Căn Mạng Đời NgườiTổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.

Phật Thích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật. Khổng Tử thì nhắn nhủ hậu thế: ông chỉ truyền lời Thánh hiền không thêm bớt không sáng tạo (thuật nhi bất tác). Vì sao nói lời nào đều phải liên hệ với kinh điển? Nếu kinh điển không mang sinh khí thời đại, không trực tiếp dẫn nguồn vào cuộc sống liệu có còn là kinh điển. Những kinh điển lạc lõng giữa dòng đời bất tuyệt là kinh điển khô nhắc chết cứng, không còn tự bảo vệ được mình trước những phát triển của văn minh nhân loại, trước những phát hiện khoa học về con ngườibản thể vũ trụ. Kinh điển ấy… lỗi thời. Kinh điển phải luôn gắn với đời sống; nhất cử nhất động của con người đều có thể soi vào đó mà chỉnh sửa, ấy là kinh điển chân chánh.

Thế kỷ XXI được xem là thời đại khoa học công nghệ. Những phát minh, khám phá của khoa học đã làm chấn động nhân loại. Một trong những công trình đó là khám phá ra biểu cảm của nước (cũng như trước đó khoa học đã khám phá ra bản tánh của thực vật). Một thí nghiệm ở Nhật với hơn một trăm vị sư ngồi tụng niệm yêu thương nước trước một cái hồ bẩn rộng mênh mông, sau một buổi hồ nước trở nên trong. Thân thể người do tứ đại hợp thành, trong đó nước chiếm khoảng 70%, vậy ra bệnh tật xuất phát từ sân hận, mê lú, chấp trước, phân biệt, xan tham, mê đắm, quyến thuộc, tật đố, si ám, ngã mạn… (những thứ khiến cho nước trong thân thể nhiễm ô). Nhiều ngôi chùa nhận chữa cho những người bệnh mà y học đã bó tay với điều kiện: ở lại chùa ăn chay, nghe giảng đạo… Chính là chùa chữa Tâm (thanh tịnh, trong sáng) chứ không phải chữa thân. Người bệnh mà bệnh viện trả về, tức bị dồn vào bức mành mong manh cuối cùng ngăn cách sống chết. Chỉ với một yêu cầu ăn chay niệm Phật, nghe pháp, lạy Phật mà họ cũng lắc đầu; trong lúc chùa không mảy may vụ lợi. Đủ thấy muốn khai phá chấp trước cũng ngang bằng một người phải san bằng ngọn núi lớn. Đại sư Buddhadasa người Thái Lan trong cuốn "Cốt lõi của cội Bồ đề" (Hoang Phong dịch) gọi đây là "bệnh tâm linh" - "là một căn bệnh không cho phép mình quán thấy được sự thật tối hậu của mọi sự vật đúng thật với những gì là như thế. Do đó bệnh ấy là một thứ bệnh liên quan đến vô minh, hay là sự hiểu biết sai lầm, và nếu đã là một sự hiểu biết sai lầm thì tất nhiên là nó sẽ đưa đến những hành động sai lầm và từ đó phát sinh ra khổ đau”. Và "Phương thuốc giúp chữa khỏi chính là tánh không. Hơn nữa tánh không chẳng những là một phương thuốc mà còn là cả một sự giải thoát có thể làm triệt tiêu tất cả mọi thứ bệnh tật, bởi vì phía sau tánh không sẽ chẳng còn lại gì cả". Hiểu được lý vô thường chúng ta sẽ không chấp điều lớn nhất: thân này là ta (mà chỉ là của ta - như áo quần). Theo đó những gì bám víu sẽ nhẹ nhàng trôi xuôi. Thân như vậy là thân bóng bay với chỉ một sợi dây duy nhất, ta muốn cắt lúc nào cũng được, vậy thì lo gì không lên được Cực lạc?

Khám phá về nước nói riêng làm lay chuyển nhận thức loài người, khoa học gia vĩ đại phải mất vô thiên lủng thời gian, đâu hay đã vô tình chứng minh một vài câu kinh Phật! Còn vô vàn những câu kinh nữa… đều đang chờ khoa học soi chiếu. Nhưng có điều, e rằng khi khoa học bật sáng một góc trời đêm Phật pháp, thì hành tinh xanh đã hoang hóa. Càng khám phá, khoa học càng thấy Phật pháp là bậc thầy của khoa học. Nhưng quá nhiều người vẫn chỉ tin và “sử dụng” những câu kinh đã được khoa học minh chứng là đáng tin. Thật đắc địa, một pháp sư gọi hiện tượng đó là “mê tín khoa học”!


Kinh điển Phật giáo là kim chỉ nam của bất cứ người nào muốn trả lời hai câu hỏi: “Ta từ đâu đến?” và “Ta sẽ về đâu?”. (Ở đây xin không hiểu theo danh hiệu của các Phật: Như Lai - không từ đâu đến, không đi về đâu - Kinh Kim Cang: “Vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ”). Lời Hòa thượng Tuyên Hóa : “Đối với người tu hành chân chính, lúc chết tâm họ rất sáng suốt, biết mình từ đâu tới và sẽ đi về đâu”. Cũng là chỉ bản lai diện mục? Biết đâu chúng ta đến hồng trần này từ bên châu Phi, biết đâu chúng ta từ cõi ngạ quỷ hay từ cõi trời “rớt” xuống; và (nếu thành tựu trong Tịnh độ), chúng ta sẽ biết chắc mình sẽ về Tây phương Cực lạc khi thân giả tạm này mất. Học Phật nhất thiết phải bám sát kinh điển, vừa học vừa hành. Phật đã nhập diệt, ngón tay chỉ trăng bây giờ chính là kinh điển [Đại thừa] và những vị được giới chân tu xem là chứng quả, là Bồ tát thị hiện. “Các con hãy lấy Pháp của ta làm đuốc!” (Kinh Pháp Cú). Không nương theo kinh là không tin lời Phật. “Những kẻ không tin lời Như-Lai nói là những kẻ mãi mãi thọ khổ” (Kinh). Một người đời nay không thể không biết - pháp sư Tịnh Không. Ngài bảo những người cúi lạy Phật mà không hiểu Phật, không học Phật chính là mê tín. Thế nên học Phật không hành (ví như học Mật tông lại không trì/nghe chú, học Thiền tông lại không ngồi thiền, học Tịnh độ lại không chuyên trì niệm Phật) thì khác nào bám phần nổi của tảng băng phiêu dạt trên biển cả. Theo Phật mà xa rời kinh điển dễ mập mờ giữa chánh và tà. [Tuy nhiên], cổ Đức nói: “Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, ly Kinh nhất tự tức đồng ma thuyết”. Có một ví dụ rất tuyệt: ly sữa bổ dưỡng là Phật pháp, nhưng thêm vào chỉ một giọt độc thôi, hỏi ly sữa còn dùng được?! Y giáo phụng hành là lẽ căn cốt của người học Phật. Người không tu, không phải vì thế mà khinh khi Phật pháp, đứng trước cửa Không khua chuông đánh trống; không phải vì thế mà ung dung ngoài luật nhân quả, kể cả người theo các tôn giáo khác.

Dưới đây là một số quan điểm lệch lạc về đạo Phật do chính tôi tạo tác. Có câu có lời đã được chính thống hóa trong các ấn phẩm, sách xuất bản; sự ảnh hưởng càng rộng, người viết ra nó sẽ nhận về phần nghiệp càng nặng; có câu mới chỉ là ý niệm - những ý nghiệp hằn sâu trong tâm thức tôi trước ngày đến với Phật. Để thấy nếu không nương vào lời Phật dạy thì nhất cử nhất động, nhất tâm nhất ý đều dễ gây nghiệp. Có khi buông ra một câu song (do mức ảnh hưởng rộng) cả cuộc đời không trả hết nghiệp.

Từ gia đình bước ra xã hội, tôi gặp nhiều cảnh đời tăm tối. Con người bị dồn vào đường cùng bi đát, con người kêu gào trời Phật, nhưng trời Phật dường như không nghe thấy; nên nghe câu “Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người”, tôi tin. Thiển nghĩ trời Phật không có, vậy mình nhìn lên trời làm gì? Hãy cứ bám chân trên đất mà đi. Phật có nêu quy luật nhân quả luân hồi, và Phật thần thông quảng đại sao không đưa loài người thoát khỏi Bể Khổ. Thế nên lần đầu tiên tiếp xúc với chữ Không, tôi xem đó là sự phủ nhận trần gian.

Cơ duyên sao giáo lý nhà Phật vẫn cuốn hút tôi. Học thêm được chút ít, mới hay nghiệp ý về chữ Không thật sự nghiêm trọng. Bởi, “Không hay Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng nhất trong triết lý Đại thừa” (Suzuki). Luận về Triết họcTôn giáo, Suzuki cũng viết: “Đừng lẫn lộn không với không chi; cũng đừng tưởng rằng có một đối tượng của tư tưởng được gọi là không, vì ý tưởng này đi ngược hẳn với bản chất đích thực của Không. Không nên xác định nó như là tương đối tính, như một số học giả quan niệm. Chính Bát Nhã dạy rằng các pháp hiện hữu tương quan liên hệ như là những kết quả của những tập hợp duyên sinh và do đó chúng là không (…). Chính trí Bát Nhã soi thấy tất cả những hàm ngụ của Tánh Không”.

Một Hòa thượng người Việt Nam ví Không như con số không. Nó vốn không là gì song thiếu số không (0) thì mọi tính toán trên tiểu học đều tắc tị. “Vì có nghĩa Không này - Tất cả pháp được thành - Nếu khôngnghĩa Không - Tất cả bèn chẳng thành” (Trung Luận - Long Thọ). Không gần như là trung tâm luận Phật giáo. Nếu tôi cho Không là sự phủ nhận trần gian thì cũng khác chi nói Phật giáo phủ nhận nhân gian. Kinh Pháp Hoa có một câu dạy rất đặc biệt, nêu lên mục đích ra đời của mười phương chư Phật: “Các đức Phật chỉ vì một việc trọng đại duy nhất mà ra đời, đó là vì khai ngộ cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật”; “Khai hóa hiển thị chân thật chi tế, siêu quá thế gian chư sở hữu pháp, tâm thường đế trú độ thế chi đạo” (Kinh Vô Lượng Thọ); "Bồ Tát nếu có thể tùy thuận chúng sanh, thì chính là tùy thuận cúng dường các đức Phật. Còn tôn trọngthừa sự chúng sanh thì chính là tôn trọngthừa sự các đức Như Lai. Nếu làm cho chúng sanh vui mừng thì chính là làm cho tất cả Như Lai vui mừng..." (Trích mười nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát); "Nếu cần hiện thân Tỳ Kheo độ thì hiện thân Tỳ Kheo, nếu cần hiện thân Tỳ Kheo Ni độ thì hiện thân Tỳ Kheo Ni, nếu cần hiện thân cư sĩ độ thì hiện thân cư sĩ" (Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn); “Không những tự điều phục mình mà còn điều phục cho kẻ khác, không những dứt phiền não cho mình mà còn dứt phiền não cho kẻ khác. Không những tự mình qua đến bờ giác giải thoát, mà còn độ cho người khác đến bờ giác giải thoát”. Dẫu vẫn có người chứng được sơ quả liền “chán bỏ” thế gian, ngồi thiền chìm đắm, miên man hàng tháng hàng năm mới chịu xuất định, quên mất mục tiêu tối thượnghóa độ chúng sinh. Thế nên lời Đức Phật dành cho những đệ tử đầu tiên chứng đạo là: “Hãy lên đường, này các tỳ kheo, vì lợi ích cho số đông, vì an lạc cho số đông, vì thương tưởng thế gian, vì lợi íchan lạc của chư thiên và nhân loại”; Đức Đạt lai Lạt ma răn: “Đã tự xem mình là người noi theo gót chân Phật thì phải luôn tự xét chính mình, tự xét tâm nguyện của mình, và phải luôn giữ gìn nguyện vọng muốn giải thoát tất cả mọi người mọi loài ra khỏi khổ nạn luân hồi”. Kinh Hoa Nghiêm khuyên nhắc bậc chứng Bồ đề phải “vì người mến thích cảnh giới mà nói pháp vô sở hữu. Vì người mến thích chỗ tịch tịnh mà nói pháp phát thệ nguyện lớn khắp lợi ích tất cả chúng sanh”.

“Vạn pháp giai không, duyên sanh như huyễn”. Bàn về Không thực tế không bờ mé: bất khả thuyết, bất khả luận, bất khả tư nghì. Ở cấp độ phàm phu, tôi chỉ sờ mó và chấp nhận đưa ra một khái niệm tạm thời chứ không thể xuyên qua bản thể của nó được. Khoảng một phần tư giây là một khảy móng tay, trong một khảy móng tay có hàng trăm triệu lần sinh diệt, mức cực vi tế đó chỉ Phật nhãn mới thấy được. Lão pháp sư Tịnh Không giảng: một giây trên màn hình là sự ghép lại của 24 hình, tức 24 lần sinh diệt, nhưng mắt chúng ta chỉ thấy một bước chân người đi chứ đâu thấy được 24 hình ghép lại. Mức sinh diệt quá nhanh nên nhục nhãn không thể thấy.

Con người hợp từ tứ đại, cũng như một đám mây mà ta chỉ thấy đám mây với nhiều hình dạng, chứ đâu thấy hợp tan. Sắc tức thị không không tức thị sắc (Bát nhã Tâm kinh). Mỗi người khi sống chính là có [hình tướng], lúc chết thì tan rã trở về không [hình tướng]. “Ngay cả khi sắc được phân ra thành các phân tử cực kỳ vi tế, hoặc các đặc tánh của nó được phân ra thành các hiện tượng giới chẳng hạn như mùi vị, sự nhận biết về bản tánh của sắc vẫn tồn tại”. (Bảo tàng tri kiến, Thế Thân). Không ấy đâu phải là không. Chính là còn linh hồn (theo cách gọi dân gian; trong kinh Phạm Võng cũng có nhắc đến “linh hồn đi đầu thai”); gọi theo Phật giáothần thức, linh tánh, hay thức a lại da. Thức ấy không hình tướng trong mắt phàm, song lại là có hình tướng đối với các nhà ngoại cảm hoặc trong mắt ngạ quỷ,… Tiếp tục lại bị “xóa” hình tướng trong mắt Phật để hóa sinhTây phương Cực lạc hoặc Thế giới Lưu Ly của Phật Dược Sư… Và tột bậc của sắc không chính là do tâm tạo. Tam giới duy tâm. Tâm chứng thì hết thảy mười phương khắp pháp giới hiển bày. “Thế giới này được dẫn đạo bởi tâm tư, thế giới này bị quét sạch bởi tâm tư, thế giới này dưới sức mạnh của tâm tư” (Kinh Samytta Nikàya, I, tr. 39).

Sách Truyền đăng lục chép công án “Con chó của Triệu Châu”:

Có người hỏi Thiền sư Triệu Châu:

- “Con chó có Phật tánh không?

Triệu Châu đáp: “Không”.

Phật bảo tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, sao con chó lại không. Không, là cái không đã chút ít giải ở trên. “Cái không có này không phải là làm cho không có mà bản tánh của tất cả các pháp vốn là Không” (Kinh Viên Giác). Và nữa, không là “vô”. “Vô”, theo một số luận sư, là vô nhị tướng. Nếu một chân tu miên mật, họ chẳng những trừ được tạp niệm bất thiện, mà kể cả niệm thiện. Không cứ là niệm thiện hay tà, hễ khởi niệm là vọng tâm. Ví như người tu Thiền Tịnh song tu, lúc Thiền chỉ niệm “A Di Đà Phật”, tuyệt đối không có niệm khác xen ngang. Hễ móng khởi tạp niệm, ấy là vọng/mê.

Quay lại với ý nghiệp ban đầu. Lúc tôi nghĩ oan cho Tánh Không, thì hàng loạt suy nghĩ sau đó nối đuôi nhau “nhúng chàm”. Từng đọc một tác phẩm văn học, ý nói Phật tuy lớn lao khôn cùng song đã “rủ” loài người đi quá xa hồng trần. Cõi mà Phật muốn con người vươn tới gần như ảo tưởng. Cho nên Phật dẫu là Đại Lương Y sợ rằng sẽ phát cho tôi thứ thuốc ru ngủ sự tuyệt vọng mà mình vì tài hèn nên không đạt đượccõi trần.

Nói đạo lộ của Phật là ảo tưởngbóp méo kinh điển. Kinh chính là Phật. Phật chính là Kinh. Những người đắc đạo hiện thời và các Bồ tát được ấn chứng rất nhiều. Họ chính là kinh điển sống. Họ sờ sờ sừng sững sao gọi là ảo tưởng được. Ở Việt NamBồ tát Thích Quảng Đức; có Tuệ Trung Thượng Sĩ, Phật hoàng Trần Nhân Tông, Hòa thượng Từ Đạo Hạnh,… Nước ngoài có tổ Ấn Quang, thiền sư Hư Vân, hòa thượng Tuyên Hóa, pháp sư Tịnh Không, Đức Đạt Lai Lạt Ma. Một giáo sư uyên bác thỉnh giảng khắp thế giới với số giáo án hạn hẹp, lâu lâu không xem lại thì quên. Một danh sư xứ Ấn ví ấy là kiến thức be bờ đắp đập (tạo một cái hồ rồi tát nước của thiên hạ vào), lâu ngày nước không cạn cũng đục. Còn bậc đắc đạo giảng pháp suốt cả đời người không lặp chủ đề. Lão pháp sư Tịnh Không riêng giảng bộ Kinh Hoa Nghiêm đến 17 năm, chưa nói giảng nhiều bộ kinh khác nữa. Có vị suốt ba mươi năm không xem thời sự báo đài nhưng hỏi đến đâu đều tường tận. Đó chính là trí huệ Ba la mật tối thượng, mỗi lời đều như suối mát tuôn chảy không bao giờ cạn. Tôi, bởi không đạt được nghị lực “không bình thường” thì gán phù hiệu ảo tưởng cho mình. Thật muôn lần sám hối!

Có một thực tế, nhiều người bị cuộc đời đánh cho ra “xơ mướp” mới cầu đến Phật, nhưng Phật từ chối. Vì Phật không phải thần linh. Phật là người minh bạch, hiểu rõ chân tướng vũ trụ nhân sinh, nên lời Phật đều là nói về bản thân con ngườihoàn cảnh sống; có xa rời thực tế bao giờ. Phật là chỉ con đường thoát khổ cho ai tỏ ngộ cuộc đời này vốn bể dâu. Họ phải học và hành theo đúng lời Phật dạy. Thân tâm an lạc, cuộc sống thanh tịnh chính là Cực lạc. Nếu chặt phăng các kiếp quá khứvị lai, chỉ giữ lấy một khúc ngắn là cuộc sống tại cõi ô trược thậm khổ này, dĩ nhiên quan niệm của họ không sai. Học Phật chính là phá mê, “mê” trước nhất là đập bức tường ngăn cách với các kiếp trước sau tương tục. Muốn vậy phải soi mình vào đức hạnhgiáo lý của Phật, không có con đường nào khác. Hễ ai thực hiện được Thập thiện đạo, đã là một trong những người tốt nhất. Thập thiện đạo chính là máy “phát hiện cái giả” trong mỗi người. Nếu Tứ diệu đế, Tứ chánh cần, Thập thiện nghiệp đạo, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên, Lục độ, Lục hòa… là những liều thuốc ru ngủ những người tuyệt vọng, thì có lẽ bây giờ chính là thời… Diệt Pháp - hết thảy nhân loại đều được thay bằng người máy! Tôi cũng được biết đến rất nhiều học giả, nhà khoa học tầm cỡ trên thế giới sau chặng đời“loanh quanh” đã quay về nghiêm túc học Phật, tôn đạo Phật làm Thầy.

Trong tác phẩm văn học khác, tôi cũng từng sản sinh nhiều câu chữ khiến bây giờ đọc lại rùng mình. Xin lấy một ví dụ trong nhiều tội đã gieo vào trang viết. Trong một truyện ngắn, sau khi khen đạo hạnh của vị sư nọ, tôi liền nhét vào mồm nhân vật ấy những lời sau: “Chứ mô như cha thầy chùa hay tới nhà con mệ đầu xóm này này (ông đưa tay chỉ). Nhôông hắn chết lâu rồi. Năm ngoái cha tới tìm mua đất, nói xây cái am tịnh tâm. Tịnh mô nỏ thấy…”. Ấy là tội “báng bổ tăng bảo”, rất nặng. Xin sửa lại: “Chứ mô như thằng cha giả cạo đầu làm sư hay tới nhà con mệ đầu xóm này này…”. Tuy nhiên tôi chỉ đính chính được vài nơi; nhiều cuốn sách được in, nhiều trang web “mặc định” hoặc google lượm lặt, không thể sữa chữa ngoài việc sám hối, hồi đầu chuyển tâm về với Phật, dùng chánh kiến sau đè lên tà kiến trước...

Những dòng chữ của tôi viết trên, dân gian nhìn vào họ sẽ nói: “À, thầy tu là như vậy đó, Phật giáo là như vậy như vầy, rồi “quy kết” Mạt Pháp. Thực tế Pháp thì vẹn nguyên. Phật Thích Ca bảo, đến thời Diệt Pháp (sau khoảng 9000 năm nữa) Pháp chỉ còn 4 chữ “A Di Đà Phật”. Người chuyên sâu Tịnh tông đã thấy, ấy là vạn Pháp được nén vào 4 chữ; chuyên nhất tâm niệm “Nam mô A Di Đà Phật” sẽ thoát khỏi luân hồi. Việc thoát luân hồi phải là mục tiêu căn cốt nhất trong một kiếp người. Nếu không nhắm đến mục tiêu này, “duyên” rơi vào tam ác đạo (súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục) dễ như bỡn. Chúng sinh là danh từ dùng chung cho tất cả sinh linh trong tam đồ. Bể Khổ cũng chính là Tam giới (Kinh Pháp Hoa ví là ngôi nhà lửa - Tam giới như hỏa trạch). Con người không nhìn thấy ngạ quỷchúng sinh trong địa ngục (và không chịu tin mình cũng có “cơ duyên” làm súc sinh) nên không tin đời là Bể Khổ, cũng dễ hiểu (!).

Trong sự gọi là “Mạt Pháp”, chính là do cá nhân tôi góp thêm tội nghiệp. Nếu không một lòng hướng về cõi Phật, không chừng cửa địa ngục A Tỳ đang mở rộng… Kinh chép, thuyết giảng cho ngài Trừ Cái Chướng xong, lúc bấy giờ Đức Phật bảo ngài A Nan: "Nếu ai khinh mạn chư Tăng Ni, thì người này sẽ sanh trong gia đình bần cùng hạ tiện. Ở mọi nơi sanh ra, các căn đều chẳng hoàn chỉnh, gù lưng, lùn và xấu xí. Lúc xả báo thân đó, thì khi sanh ở đời sau sẽ chịu nhiều bệnh tật, gầy ốm héo hon, chân tay co quắp, có máu mủ ứa ra và nhiểu khắp trên thân thể. Đó là khổ báo mà trăm ngàn vạn năm người này phải thọ lấy”.

Bước được bước đầu tiên vào cửa Phật, đã thấy được sức hút của Phật học về các tầng trời cảnh giới, nhưng thật lạ kỳ là tôi vẫn có một sự so sánh tai hại mà đến bây giờ ngẫm lại dẫu có chui xuống gầm giường cũng không hết xấu hổ. Một nhân vật tôi nặn ra đã không thể cưỡng sức hút ghê gớm của đàn bà (chuyện bình thường của kẻ sơ cơ), tai hại là nhân vật ấy ví sức hút đó cao hơn sức hút của Đạo, từ đó bẻ gãy mầm xanh Phật pháp mới nhú.

Sức hút tinh thần chính là sức hút từ cõi thiêng vốn sẵn trong mình. Tinh thần ở đây có thể hiểu là Tâm. Tâm là đích tu luyệnđạo Phật nhắm tới. Tâm như “hạt minh châu” ngời sáng bị cơn lốc cuốn theo mọi tạp vật nhơ uế vùi lấp; vạn duyên buông xuống, tay không sẽ nắm trọn hư không pháp giới. Còn sức hút ghê gớm của người đàn bà là sức hút của… hổ. Hòa thượng Quảng Khâm từng hàng phục được cả hổ bằng tâm từ; hổ nhường hang cho ông tu, dẫn con kiếm chỗ ở khác. Hòa thượng Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng đã nhắc kẻ đương cơ, dâm chính là hổ, chưa hàng phục được dâm chính là chưa hàng phục được hổ. Vạn ác dâm làm đầu; người tu còn bị “hổ” kia gầm gừ thì đừng hòng nhấc chân khỏi mặt đất.

Ở truyện ngắn khác (may là chưa công bố và đã có dịp chỉnh lại) tôi mô tả cảnh người người đổ xô về chùa tìm chốn nương thân lánh nạn, rồi phán họ xuất thế gian chạy đi tìm Cực lạc. Những nhân vật không có chút khiêm hạ, không có lòng tự trọng, trốn tránh việc thế gian trong thời tao loạn chạy lên chùa xài đồ chùa mà phán là tìm Cực lạc! Thực tế trong trăm ngàn người, để thấy người chân tu Tịnh độ nguyện sanh về Tây phương nước Phật thì tôi phải tìm mờ mắt. Là bậc đại chân tu, tài sản của họ chỉ vài bộ y, mỗi ngày ăn một đến hai bữa đạm bạc không thể đạm bạc hơn, bữa ăn của “hộ nghèo”; họ không nắm tiền bạc, hết thảy vật cúng dường dành làm từ thiện, ấn tống kinh điển, hoằng pháp lợi sanh… Kinh ví một hạt gạo cúng dường nặng tựa núi Tu Di, người tu nhận rồi phải vắt chân đêm ngày mau chóng viên thành chánh quả, thực hiện ước nguyện lớn nhất: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Hòa thượng Tuyên Hóa tu đắc đạo, khi thiêu hiện xá lợi, trong một buổi giảng Kinh Địa Tạng năm 1969 đã có đề cập vấn đề này: “Đừng nói là người tại gia, ngay cả tôi tuy là kẻ xuất gia, song hễ đến trú ở bất cứ Thường Trụ nào, tôi đều có cúng dường (…). Nếu quý vị quả thật là không có tiền thì không sao, nhưng nếu có tiền thì chớ nên xâm tổn của Thường Trụ; cho dù là người xuất gia cũng không nên xâm tổn của Thường Trụ. Bởi Thường Trụví như đại địa, là nơi trú ngụ của đại chúng; nếu quý vị phá hoại, phung phí của Thường Trụ, khiến cho đại chúng bị thiếu thốn, không đủ ăn, thì quý vị có tội rất lớn”. Thế nên dòng người “của chính tôi” chạy đến chùa chiền xâm hại sẽ tội nặng hơn cả “mang lông đội sừng”. Kinh Đại thừa trang nghiêm bảo vương nêu chi tiết những ai phương hại, chiếm đoạt Thường Trụ lãnh quả báođịa ngục nhiều kiếp thật là khủng khiếp, sau đó mới thác sanh vào trong một gia đình bần cùng hạ tiện với hình hài dị tật.

Một vấn đề rất cũ, và cũng đã được cắt nghĩa: Phật không phải thần thánh. Dĩ nhiên, người chứng sơ quả tức siêu phàm nhập thánh, nghĩa là thần. Quả vị cao hơn như sơ trụ Bồ tát họ đã đầy mình thần thông. Song không bao giờ có chuyện những người đó thị hiện trước chúng sanh. Do chúng sanh cần tự ngộ; hiển bày thần thông chẳng khác đưa “mồi” dụ dỗ, đánh mất cơ hội giác ngộ của người tu. Không tự ngộ dẫu có tu được chút thần thông cũng chẳng thể lên nước Phật. Đây là chân lý của Đạo. Bước biến chuyển sai lầm của tôi bắt đầu: Lúc gặp người kêu oan “vô vọng”, tôi không cho rằng có Phật; chập chững theo Phật, tôi lại cho “ông” là bậc siêu nhiên. Bây giờ mới lờ mờ hiểu cái lý Phật “không phải” thánh thần. Tin thần thánhtín đồ của tôn giáo (trong khi đạo Phật không phải tôn giáo). Phật chỉ vào mỗi người và bảo Phật có sẵn trong tâm vẩn đục kia, hãy tin ở chính bản thân mình, trọn làm theo lời ta sẽ đến bờ giác ngộ); ai tin như vậy mới chính là con Phật. Ngài từng căn dặn: “Nếu con coi ta là Phật, con sẽ không bao giờ thấy được Phật. Nếu con lắng nghe giáo Pháp của ta mà coi là Pháp, con sẽ không bao giờ thấu đạt được chân Pháp.” Gyalwang Drukpa XII gọi đó là "thông điệp vĩ đại”. Kinh Kim cang Bát nhã Ba la mật: "Nếu như vị A-La-Hán nghĩ thế nầy: Ta chứng được quả vị A-La-Hán, thời chính là còn chấp-trước tướng ngã, nhân, chúng-sanh, thọ-giả". Nên có đạo lý: hễ ai phát ngôn chứng quả (dẫu là quả Tu đà hoàn thấp nhất), người ấy sẽ bị tước bỏ. Lúc ấy họ chẳng phải từ đọt tre rơi xuống mặt đất mà chính là từ trên trời rơi thẳng xuống... địa ngục. Nhà Phật có treo khẩu hiệu ngầm: hễ hôm nay để lại thân phận hoặc bị lộ mình là Phật, Bồ tát tái lai, ngày mai họ sẽ rời nhân gian: (Bố Đại hòa thượng (Phật Di Lặc), Hàn Sơn, Thập Đắc (Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền), Vĩnh Minh thiền sư (Phật A Di Đà),…). Chuyện về tổ Ấn Quang (được xem là Ngài Đại Thế Chí tái lai hóa độ) là một minh chứng điển hình.

Ngôn ngữ vốn dừng lại ở mức gọi tên cái đã có tên (siêu ngôn ngữ), với Thiền, ngôn ngữ chỉ tạm gọi tên điều bất khả (“Nếu pháp rốt ráo thì pháp tánh của tự tánh chẳng phải là tự tánh. Pháp thí dụ không thể thuyết. Nếu dùng danh tự cũng không thể thuyết. Đây là một pháp mà Như Lai giác ngộ” (Kinh Vô Tự Bảo Khiếp); đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh - Lão Tử). Chúng ta thường dịch Thiền là suy tư mặc tưởng (Méditation). Nhưng thiền vốn trống không. Nếu “lập thiền” thì nhiếp tâm theo dõi mọi biến thái chạy qua tâm mà không dùng lý trí, không tâm tùy cảnh chuyển. Hoặc có thể thiền Tứ niệm xứ; đầu tiên là quán (tạm xem là suy tư mặc tưởng) về thân bất tịnh: từ lúc còn trong bụng mẹ, sinh ra bùng nhùng nhau thai nhuốm máu, quán đến những chỗ bẩn nhất trên cơ thể, quán trong mình chứa thứ hôi thối, quán bệnh tật mụt nhọt ghẻ lở, quán lúc chết nằm trong quan tài rữa nát… Trụ lại ở hiện tượng người ấy không xen cảnh khác. Còn nếu ngồi suy tư mặc tưởng, tâm chụp cái này săm soi chưa chán đã chê rồi với cái kia như đứa trẻ trước đống đồ chơi thì chẳng phải thiền nữa. Hoặc ngồi thiền niệm 6 chữ Phật hiệu; mỗi “Nam mô A Di Đà Phật” là một mắt xích, cứ thế nối nhau thành sợi xích kéo cỗ máy phi thời gian đi miết, nếu một niệm xen vào nghĩa là sợi xích bị đứt, trở thành thiền… loạn.

Đời nay vẫn có nhiều bậc tu trì giới một cách nghiêm ngặt. Lấy giới làm Thầy theo “di chúc” của Phật. Nhưng lắm người nhìn vào lại phản bác sự “khổ hạnh” đó. Rồi múa rìu qua mắt thợ khuyên họ hãy sống một cách tự nhiên, tùy duyên để có thể viên thành chánh quả. Đúng là Phật đưa ra lối tu trung đạo (hành theo Bát chánh đạo). Tuy nhiên cần hiểu sâu hơn. Một hành giả chân chính phải ngày vài ba lần tham thiền, hoặc vài ba lần tụng kinh niệm Phật, lạy Phật, ở chùa thì ai nấy 3 giờ sáng là đã thức dậy công phu. Đối với các bậc thượng căn thì mức độ hành trì còn “khủng khiếp” hơn nhiều. Hòa thượng Quảng Khâm một mình lên núi bế quan, chỉ ăn rau củ kiếm được, nhiều lúc suýt mất mạngthiếu thốn. Ngài Hư Vân “tam bộ nhất bái” xuyên mưa gió bão bùng, đồi núi, một mình băng băng. Tâm không vững thì dẫu là thân sắt cũng gục ngã. Nghị lực tâm phi thường đó nhiều lần kéo thiền sư khỏi cõi chết nhập thánh duyên. Luyện tâm là khó nhất khổ nhất trong mọi sự luyện (luyện thân, luyện trí; luyện đan, luyện gang thép…). Không nhẫn nhục khổ ải thì cái vé lên nước Phật rẻ rúng quá sao? Hòa Thượng Tuyên Hóa đưa ra hai phương án: đời này chịu khổ chút chút để có Vô lượng thọ, ngược lại truy tìm cái sướng giả ảo một kiếp để nhận lãnh vô lượng nghiệp trong Tam ác đạo, hãy chọn.

Thế nên trước đây đọc Thiền luận, tôi đã gán yếu tố “cơ hội”, “ăn may” trong việc đốn ngộ. Kinh Pháp hoa: “Nhược nhân tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất xưng Nam Mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo”. (Nếu người tâm tán loạn, đi vào trong tháp Phật, niệm một lần ‘Mô Phật’, cũng đủ thành Phật đạo). Sự “thành Phật đạo” này hiểu là "sẽ thành" như Phật nói: "Ta là Phật đã thành chúng sanh là Phật sẽ thành"; còn thành lúc nào thì chưa biết được. Nhiều người nhờ nhân lành trong đời trước, phút lâm chung hội đủ nhân duyên, nên chỉ “mười niệm” vào thời điểm cận tử liền được tiếp dẫn lên thế giới của Phật A Di Đà. Xin dẫn câu chuyện chép trong kinh: một ông già đến quy y với Phật, rồi đắc quả; các đồ đệ ngạc nhiên vì họ nhìn trong vô vàn đời quá khứ của ông không thấy có “nhân”. Phật mới nói: các ông chỉ nhìn thấu suốt tám mươi vạn kiếp lại đây còn trước đó các ông không thấy: có kiếp ông ta là một tiều phu, lên rừng bỗng dưng gặp hổ, ông trèo lên cây; giữa lúc không còn hy vọng nào ông ngửa mặt lên trời "Nam mô Phật" cứu độ. Đấy là câu niệm Phật bằng cả máu huyết căn mạng. Nhân lành ấy gieo, sau hơn tám mươi vạn kiếp mới viên mãn Bồ đề. Để thấy có người niệm vạn câu Phật hiệu vẫn không rút ngắn kiếp nào trên đường dài tiến về nước Phật, có người hành thiện suốt đời vẫn không tích được mảy may phước đức, có người tu theo kiểu gieo nhân, nên mãi vẫn là phàm phu.

Cũng như bản thân viết những dòng này đã vô cùng hổ thẹn. Phật họcđại dương, tôi chỉ có một vốc nước để soi khuôn mặt nhớp nhúa của mình. Tôi đã phóng con tàu hạnh nghiệp quá sớm lúc mình chưa đủ sức đuổi theo nó. Nên dăm lời thô mộc là hiểu đúng hơn chút xíu với những gì chưa thật đúng, và sự hiểu này cũng cần phải được chỉ dạy thêm từ những bậc chân tu Phật Pháp.

N.N







Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22474)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21764)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23326)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21188)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21767)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22231)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20054)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21948)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24747)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18988)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 30974)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23987)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27763)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26511)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38127)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18438)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19976)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19044)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23161)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22910)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18709)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15847)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18857)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19676)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20153)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19952)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18117)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16418)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16917)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39244)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26067)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20097)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18850)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24060)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29139)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22901)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30955)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21008)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26850)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20677)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26266)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23324)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19817)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15829)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19850)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28963)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20690)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19442)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30493)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36424)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33230)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35563)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20987)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21918)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25262)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25798)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31263)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant