Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chú Thích

20 Tháng Năm 201000:00(Xem: 8150)
Chú Thích

KINH THẮNG MAN PHU NHÂN HỘI
TAM TẠNG BỒ ĐỀ LƯU CHÍ Dịch từ Phạn sang Hán 
Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội 2006

 

CHÚ THÍCH

01 Lý do : Nhân duyên 

02 Bản khác là “Tin Phật chưa lâu”. Nghĩa là, tuy đời này đến với Phật pháp chưa bao lâu, nhưng đã có niềm tin đối với Phật. Văn của hai bản tuy thấy khác nhưng cùng một ý nghĩa

03 Thứ gì được lặp lui lặp tới thành thói quen rồi, khi đủ điều kiện nó sẽ hiện ra. Đây giải thích vì sao có các thần đồng về âm nhạc, toán học v.v… cũng giải thích vì sao có người nghe đến Phật và kinh thì ưa mà có người thì không, có người tin hiểu pháp Đại thừa, có người tin hiểu pháp Nguyên thủy … Đều do sự huân tập trước đây. 

04 Bản khác “Nhất định sẽ mau hiểu pháp, tâm được vô ngại”. 

05 Gặp được pháp và vị thiện tri thức mà mình đã từng có nhân duyên từ những đời trước. 

06 Nghiên cứu luận Đại Thừa Khởi Tín – phần HUÂN TẬP KHỞI TỊNH PHÁP CHẲNG DỨT - sẽ thấy 2 loại sở kiến báo và hóa thân này. 

07 Tuy đều là ngộ nhưng có thô và tế. Thô là chỉ cho niềm tin hoặc báo thân Phật. Tế là chỉ cho pháp thân Phật, tức tự tánh chân như của chính mình. Duy Thức Học gọi cảnh giới tự tánh chân như ấy là VÔ CHẤT TÁNH CẢNH.

08 “Vô tỷ, bất tư nghì” : Không có gì bì đọ, cũng chẳng thể nghĩ bàn. 

09 Đã giải thích rõ trong luận Đại Thừa Khởi Tín – dịch và giải Chân Hiền Tâm

10 Chỉ cho tâm phân biệt hiện nay của mình, luôn luôn có chủ thể và đối tượng để nhận thức. Đó chính là ý thức.

11 Bản Hán của ngài Bạt Đà La là “Nhiếp trì tất cả pháp”.

12 Bản Hán của ngài Bạt Đà La ghi là KÍNH LỄ.

13 Lời của HT Trụ trì thiền viện Thường Chiếu

14 Được biểu hiện ở địa vị vương phi hiện tại và qua 10 lời thệ nguyện cùng 3 đại nguyện sau của bà.

15 Nghiệm chính bản thân mình thì sẽ thấy điều này.

16 Theo Vãng Sanh Yếu Tập, nó là điều vui thứ 4 ở cõi Cực Lạc, gọi là “Ngũ diệu cảnh giới lạc” - Tự điển Phật Học Huệ Quang.

17 Bạch Ẩn Thiền Định Ca. 

18 Bạch Ẩn Thiền Định Ca.

19 Thói quen về suy nghĩ thì gọi là định kiến, về hành động gọi là tập nghiệp.

20 Với người đời, những gì thuận với tánh dục của mình là mình hạnh phúc. Song thuận theo cái dục ấy có khi đưa đến kết quả tốt, nhưng có khi dẫn đến kết quả rất xấu. Vì thế, khiến người được hạnh phúc sung sướng không hẳn đã là làm lợi ích cho người.

21 LY nghĩa là không có các thứ đó hay không dính với các thứ đó (Do nhận ra được thực tướng của chúng). Nhờ vậy, chư vị Bồ tát mới có phương tiện làm lợi ích cho chúng sanh

22 Vì chỉ mới trực nghiệm được phần THỂ. 

23 Vì đã đầy đủ cả thể, tướng và dụng.

24 Được nói đầy đủ trong luận Đại Thừa Khởi Tín.

25 Như pháp bố thí, muốn gọi là BỐ THÍ BA LA MẬT thì phải hội đủ 5 điều kiện : 1/ Cho mà không được nhiễm trước : Không vì thương mà cho, không dính mắc vào việc cho ấy v.v… 2/ Cho mà không luyến tiếc : Cho rồi thì thôi, không suy nghĩ đúng sai gì nữa. 3/ Cho mà không gây tội lỗi : Cho không theo kiểu quăng ra hay nặng nhẹ cho xứng với thứ mình cho, cũng không sanh tâm kiêu ngạo 4/ Cho mà không phân biệt : Không phải người mình thương mình mới cho, ghét thì miễn. Không phải người thân của tôi tôi mới cho. Cho là cho, như Phật tặng vợ tặng con của ngài. 5/ Cho mà hồi hướng chân chính : Tất cả công đức có được từ việc bố thí đều hồi hướng cho con đường Phật đạo, không phải để tìm quả báo sung sướngcõi trời và người.

26 So với cái thấy của phàm phu thì cái thấy của Nhị thừa được xếp vào loại chánh trí. Song so với trí tuệ của các vị Bồ tát đăng địa và chư Như Lai thì trí Nhị thừa vẫn bị cho là thiên lệch. Đây là mặt DUYÊN KHỞI của vạn pháp. Một khi đã nói đến tốt, xấu, chánh, tà thì phải nói đến DUYÊN. Còn tánh của pháp thì không có tính tốt, xấu, chánh, tà. Chỉ tùy duyên mà hiển tướng.

27 Còn gọi là duyên sanh. Pháp ở thế gian không có gì TỰ xuất hiện mà phải NHỜ duyên mới xuất hiện được nên gọi là duyên khởi. Như con gà không thể tự xuất hiện. Phải có các DUYÊN như gà mái, gà trống, lương thực, thời tiết v.v… mới có gà con. Vì pháp xuất hiện là nhờ duyên nên gọi là DUYÊN KHỞI, là do duyên mà khởi, do duyên mà thành. 

Trong các phần DUYÊN để tạo ra pháp mới đó, có một DUYÊN QUYẾT ĐỊNH và những DUYÊN PHỤ TRỢ. Như gà thì phải từ giống gà ra chứ không thể từ nước hay từ thóc. Duyên quyết định đó, gọi là NHÂN. Các duyên phụ còn lại gọi là DUYÊN. Chính hay phụ đều phải đầy đủ, pháp mới xuất hiện. Vì thế, ta có khái niệm NHÂN DUYÊN

Đã đủ nhân và duyên thì pháp chắc chắn thành hình. Pháp thành hình ấy gọi là QUẢ. Trường hợp này, tất cả duyên phụ và nhân chính đều gọi chung là NHÂN. Gọi chung là NHÂN vì do đối với QUẢ mà nói. Vì tất cả đều là thứ góp phần sinh ra QUẢ. Vì thế, ta có khái niệm NHÂN QUẢ. 3 thứ Nhân Quả, Nhân DuyênDuyên Khởi này tuy có 3 tên khác nhau nhưng vẫn có phần dung thông không khác. 

28 Đó là với những người đã đủ duyên. Những người mà duyên chưa đủ thì chưa chắc đã tin mà làm theo …

29 Thô là chỉ cho Nhân Duyên, Nhân Quả. Tế là chỉ cho chỗ “4 tướng đồng thời có, đều không tự dựng lập”. 4 tướng đây là chỉ cho 4 tướng sanh - trụ - dị – diệt của tâm. Của tâm mà cũng là của vạn pháp. Hội được chỗ Nhân Quả đồng thời này là hội được chỗ sanh ra thức tâm. Mới hay, vạn pháp chỉ là tướng của tâm, còn “Tâm chân thật chính là tánh của tất cả các pháp”. Muốn nắm được phần này thì nghiên cứu 9 tướng bất giác trong luận Đại Thừa Khởi Tín - Dịch và giải Chân Hiền Tâm. 

30 Như thấy nước trên sa mạc, không hiểu đó là ảo ảnh lại tranh tàn giết chóc để lấy bằng được nước đó.

31 Thế gian là có, là không, là không có không không, là vừa có vừa không. 

32 Với loại tập khí sâu dày, không đau khổ thấu xương thấu tủy không dễ gì bỏ được.

33 Không khác nhưng không phải một. Nhờ cái KHÔNG KHÁC này nên dù lực oai thần của Phật sẵn đó mà chỉ có bà mới nương vào đó giảng nói được, còn người khác thì không nương được.

34 Phương tiện là những thứ giúp trí vô sư hiển bày, không phải là thứ tạo ra trí vô sư ấy. Trí ấy sẵn đủ trong mọi chúng sanh, chỉ vì bị vô minh che lấp mà không sử dụng được nó. 

35 Không có bờ mé. 

36 Đây, nói về những người có chất lượng Đại thừa, không phải là người chỉ có danh xưng Đại thừa

37 Đây là nêu tạm phần thô để ta hình dung. Phần phiền não tương tục này còn phần tế. Dưới sẽ giải thích rõ. 

38 Luận Đại Thừa Khởi Tín - Dịch và giải Chân Hiền Tâm. 

39 Theo luận Đại Thừa Khởi Tín thì tâm bất tương ưng này phân thành 3. Do vô minh nghiệp tướng mà có cái thấy hư vọng và hiện cảnh giới hư vọng. Do vô minh mà có CĂN BẢN NGHIỆP BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM, tương đương với phần VÔ MINH TRỤ ĐỊA nói đây. Cái thấy hư vọng ấy gọi là NĂNG KIẾN BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM. Phần hiện cảnh giới hư vọng gọi là HIỆN SẮC BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM. Qua được 3 cái nhiễm ấy thì thành Phật. Cái định của A La HánBích Chi Phật đều là cảnh giới của phần Năng Kiến, tùy thô tế mà có A La Hán hay Bích Chi Phật. Chỉ có Phật mới phá được phần Căn Bản

40 Ngoài Phật, tất cả đều gọi là chúng sanh.

41 Gặp những duyên phù hợp với tập khí của mình, như người nghiện rượu gặp lại rượu, người có chủng tử âm nhạc trong tàng thức gặp lại âm nhạc.

42 Phần này, Bồ tát Long Thọ giải thích rõ trong luận Đại Trí Độ. 

43 Tâm do bất giác mà thành thức. Bởi thức này không có bờ mé, thâu gom tất cả, lại là thứ ẩn tàng khó thấy, nên gọi là thức tạng.

44 THỦ còn gọi là PHIỀN NÃO. Nên Thành Duy Thức Luận nói nghiệp hữu lậu làm nhân, phiền não làm duyên, sinh ra thân phần đoạn của chúng sanh. Thành Duy Thức Học phân cái THỦ này thành 4 loại. 

45 Theo kinh Lăng Già Tâm Ấn, phải đến địa vị thứ 3 trở đi mới có ý sanh thân.

46 Luận Thành Duy Thức

47 Luận Thành Duy Thức trang 128 – Bản dịch của HT Thiện Siêu.

48 Phần tu hành này đã giải thích rõ trong luận Đại Thừa Khởi Tín.

49 Muốn biết chi tiết xin xem luận Đại Trí Độ tập II, trang 165. Bản dịch của HT Thiện Siêu.

50 Muốn biết chi tiết về phần này, xin xem luận Đại Trí Độ tập II trang 120. Bản dịch của HT Thiện Siêu. 

51 Luận Đại Thừa Khởi Tín

52 Như một khi nhận ra vàng giả thì dù sử dụng nó thế nào, mình cũng không còn bị nó làm lầm để đến nỗi tan thân mất mạng.

53 Nói theo nhà thiền là kiến tánh hay chứng được nhất niệm vô sanh.

54 Âm Hán : Sanh dị phân biệt

55 Muốn rõ hơn về phần này thì nghiên cứu luận Đại Thừa Khởi Tín hoặc Duy Thức Học.

56 Kinh Đại Niết Bàn, phần Tứ Y.

57 Vốn, nghĩa là bản chất của nó không có sanh tử

58 Ngài Hiền Thủ nói “Nay Tịnh độ của Nhất thừa tuy chỉ có ở Phật mà chẳng xả thân nghiệp chúng sanh cùng các pháp. Tuy chẳng xả mà chẳng đồng phần hạn. Tuy chẳng đồng mà tức là đó. Giống như trong mộng mà thấy các vật thế gian, chỉ là giác tâm lượng. Tuy là giác tâm lượng mà không như mộng kế. Tuy chẳng như mộng kế mà chẳng bỏ các pháp được thấy trong mộng”. 

59 Muốn rõ phần này thì nghiên cứu luận Đại Thừa Khởi Tín

60 Không lìa đây muốn diễn tả tình trạng như nước và sóng. Do duyên gió mà nước biến thành sóng, tướng nước không phải là tướng sóng nhưng bản chất của sóng vẫn là nước. Không phải KHÔNG LÌA là tham sân si không bao giờ hết. Hết duyên gió thì sóng không còn. Hết duyên vô minh thì tham sân si không còn. Chỉ là một Như Lai Tạng thanh tịnh

61 “Thấu suốt về cái LÝ của mọi sự mọi vật” là muốn nói đến tính chi phối bao quát của nó mà gọi là LÝ, không hẳn là nói đến chỗ rốt ráo

62 Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ của thiền sư Hàm Thị. Bản dịch của TT Phước Hảo. Phần thức ấm thuộc Ngũ ấm ma

63 Đây là nói đến sự trực nghiệm của tâm, không phải là niềm tin hay ngộ theo kiểu trong đầu bực ra các kiến giải.

64 Dịch thuận theo văn là “Mà tướng ngã nhân chẳng thể đến được, còn có sở liễu”.

65如來藏者。身見有情。顛倒有情。空見有情。非所行境 

66 Kinh Niết Bàn nói Phật tánh thường, là do đối trị cái chấp vô thường của hàng Thanh văn. Vì có chấp mới lập kinh ra để phá cái chấp ấy. 

67 Với người thường thì khó cảm nhận chỗ này. Nhưng ai từng hàng phục vọng tâm sẽ thấy rất rõ. Như người từng miên mật với pháp Biết Vọng của Hòa thượng Thanh Từ chẳng hạn. Sẽ thấy rõ cái đi và đến không vướng bận như mây trên hư không, như bụi lấm tấm trong hư không này.

68 Trích trong Bạch Ẩn Thiền Định Ca. 說空性義隱覆真實


KINH THẮNG MAN PHU NHÂN HỘI
Chân Hiền Tâm dịch & giải
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO
Nhà số 4 – lô 1 – Trần Duy Hưng – Hà Nội
ĐT : 04-5566701 – Fax : (04).5566702
Chịu trách nhiệm xuất bản
NGUYỄN THANH XUÂN
Biên tập : Đỗ Thị Quỳnh
 Trình bày : Thủy Tiên
Bìa : 
Đối tác liên kết : Thủy Tiên ĐT : 8443138
In 1000 bản, khổ 14,5cmx20,5cm tại Xí nghiệp In Số 5, Q.5, Tp.HCM. Số xuất bản 145-2005/CXB/02-94/T6. In xong và nộp lưu chiểu quí I năm 2006. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6809)
Hai chữ quy y có nghĩa là : quay về hay hồi chuyển. Y là nương tựa hoặc dựa vào, những hành vi hồi chuyển nương tựa hoặc quay đầu dựa dẩm tin tưởng.
(Xem: 6227)
Niềm tin sâu xa nhất trong giáo lý nhà Phật là tất cả mọi người đều có thể tự cải biến mình trong từng giây phút một. Chẳng có gì gọi là định mệnh cả.
(Xem: 6569)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn.
(Xem: 7809)
Nhẫn nhục là chịu nhịn những điều sỉ nhục xấu hổ, nhục nhã, chịu đựng tổn thương trước những cảnh, sự việc không vừa lòng, nghịch ý, trái tai gai mắt;
(Xem: 6321)
Nền giáo dục hòa bình của Đạo Phật là một con đường đạo đức nhân bảnthiết thực, là căn cứ trên chân lý từ bi, công bằng và...
(Xem: 6641)
Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy mọi sự vật, hiện tượng trong phạm vi giới hạn của đôi mắt mình, nhưng...
(Xem: 5755)
Tôi đến với Phật pháp vì … quá khổ.
(Xem: 5671)
Phải luôn luôn có tâm tùy hỷ đến tất cả mọi người, nếu chưa được giải thoát thì sau khi chết, năng lực tùy hỷ sẽ đẩy mình đến những cảnh giới tốt.
(Xem: 5702)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 6829)
Chúng ta biết tu là chúng ta biết sống. Một thứ tài sản không bao giờ bị mất. Ai muốn giàu, muốn sung túc thì hãy ráng nhớ giữ gìn tài sản này.
(Xem: 6112)
Thuyết bốn Đế, tức bốn Chân lýcăn bản, là cốt lõi tinh túy của đạo Phật, là nội dung bài thuyết pháp đầu tiên của Phật ở Vườn Nai (Bénarès).
(Xem: 7114)
Đạo Phật thường quán niệmsuy tưởng về khổ đau vì đó là kinh nghiệm chung của toàn thể nhân loại.
(Xem: 6242)
Chúng ta chẳng cần tìm Phật ở đâu xa, ngài luôn luôn ở ngay trong cuộc đời, nhưng chúng ta không thấy, vì ...
(Xem: 6193)
Chúng ta có thể tìm ra chánh pháp của Phật, nghĩa là chân lý, ở khắp mọi nơi, chứ không bắt buộc chỉ tìm trong kinh điển.
(Xem: 6640)
Chúng ta đã tìm Phật và tìm Pháp, nay phải đi tìm Tăng cho đủ Tam Bảo, nói cho đủ là Tăng già, phiên âm chữ Phạn Sangha.
(Xem: 5919)
Dù là xuất gia hay tại gia, thường niệm pháp Quy Y trong đời sống, lấy Tam Bảo làm mục đích làm lợi ích cho Dân Tộc và cho cả chúng sinh.
(Xem: 6081)
Kinh sách và Đạo Pháp của Phật không phải giúp để góp nhặt sự hiểu biết mà phải dùng để tự biến cải lấy chính ta.
(Xem: 6471)
Tâm chúng sinh và Phật vốn không khác. Tất cả đều do tâm tạo. Mười cõi cũng do tâm tạo.
(Xem: 5743)
" Nầy các Tỳ kheo Như Lai nói tác ý tức là nghiệp vì có ý muốn làm mới có hành động thân khẩu ý ". Như vậy mười nghiệp lành là 10 điều giúp cho con người thực hiện trong sạch hoá thân khẩu và ý .
(Xem: 6862)
Khái niệm về sự tái sinh không phải là một khái niệm đặc thù của Phật Giáo mà đấy chỉ là một học thuyết chủ trương sự « đầu thai »
(Xem: 6027)
Có những niềm tin gây mê lầm, tội lỗi, gieo tai họa cho chính những người mang niềm tin đó mà họ không hay không biết, hoặc gieo tai họa lên nhiều người...
(Xem: 5907)
Theo kinh Lăng-già, Bồ-tát vì muốn độ tất cả chúng sanh đạt đến Niết-bàn nên phát nguyện ở lại thế giới nhiều khổ đau này để làm lợi ích cho chúng sanh.
(Xem: 6609)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5512)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5587)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 8107)
Mười nghiệp lành không những ngăn giữ chúng sanh khỏi bị đọa lạc vào bốn con đường đau khổ, mà còn mở cánh cửa thênh thang hạnh phúc an vui của phước báu nhân thiên sang cả.
(Xem: 6166)
Theo tâm lýkinh nghiệm, việc chọn lựa một tông phái để theo, phần lớn tùy thuộc vào sở thích và môi trường sinh sống của từng người.
(Xem: 5736)
Tất cả các hệ thống giáo lý phong phú của đạo Phật chỉ có một mục đích duy nhất là trình bày phương pháp và đường lối giải thoát,
(Xem: 8892)
Một người đã tin ở luật nhân quả trong đời hiện tại thì cũng phải tin ở luật nhân quả các đời quá khứ, và vị lai.
(Xem: 6548)
Thực tế cho chúng ta thấy, người học đạo thì nhiều, nhưng để sửa tâm tánh thì không bao nhiêu, đó là kết quả do việc không chịu lắng nghe.
(Xem: 5900)
"Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyền thuộc, là nơi nương tựa" .
(Xem: 5808)
Ngày nay phong trào nghiên cứu Phật học không còn bị thu hẹp trong giới Phật giáo mà đã phổ biến vào mọi tầng lớp của xã hội, không phần biệt Tôn giáo.
(Xem: 5308)
Học Phật là học con đường trở về với chân tâm, với Phật tánh—vốn hàm tàng nơi chính mình và tất cả chúng sinh.
(Xem: 6742)
Phật giáo nguyên thủy, xuất phát từ miền nam Ấn Độ, rồi được truyền sang Tích Lan, từ Tích Lan truyền qua Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào...
(Xem: 6963)
Sám hối không có nghĩa là hết tội nhưng nó có mãnh lực làm cho tâm mình thanh thản, nhẹ nhàng vì vậy nó giúp ngăn hay chận bớt những ác nghiệp mà mình đã tạo ra.
(Xem: 11090)
Tứ đếgiáo nghĩa cơ bản dùng để giải thích mọi hiện tượng nhân sinh vũ trụ được quy nạp từ thập nhị nhân duyên, là con đường trung đạo duy nhất giải thoát sinh tử luân hồi.
(Xem: 8058)
“Những Điều Phật Đã Dạy” là một trong những quyển sách nói về Phật học bán chạy nhất ở các nước phương Tây, được dịch ra nhiều thứ tiếng...
(Xem: 6076)
Tham sống sợ chết, đó là sự thật của người đời. Thế nhưng tại sao lại giết hại, cắt đứt sự sống của chúng sanh khác?
(Xem: 5433)
Theo nguyên tắc chung, tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗi người.
(Xem: 7092)
Quan niệm về cái gọi là "đời cha ăn mặn đời con khát nước" cho rằng có một cái gì vô hình lưu truyền cái nhân xấu do đời cha tạo ra và chuyển giao cái quả xấu do nhân xấu mang lại cho con cái.
(Xem: 6025)
Học Phật không phải chỉ biết được lời Phật dạy, biết qua kiến thức suông để đàm luận, lý luận, mà cần phải thực tập, áp dụng vào cuộc sống của mỗi người trong sự nghe thấy, tư duy và hành động.
(Xem: 6451)
Trong Phật Pháp, đức Phật đã chỉ sẵn một phương pháp, một nghệ thuật hay còn gọi là một bí quyết để có một đời sống hạnh phúc, đó là gìn giữ năm giới.
(Xem: 21130)
Vô thườngtính chất căn bản của đời sống; tất cả mọi sự vật sinh ra có điều kiện đều có tính chất của bốn giai đoạn “thành, trụ, hoại, diệt”
(Xem: 5839)
Mỉm một nụ cười, trở về với một hơi thở, bước một bước chân thảnh thơi... cũng có thể là những phép lạ giữa một cuộc sống căng thẳng và quá bận rộn.
(Xem: 7199)
Về phương diện đạo lý, Phật giáo cao hơn các hệ thống đạo đức khác, nhưng đạo đức chỉ là bước đầu chứ không phải cứu cánh của Phật giáo.
(Xem: 8631)
Bát Chánh Đạogiáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo.
(Xem: 6916)
Chữ Không của Bát Nhã đứng vững là dựa trên lý nhân duyên, nếu lý nhân duyênchân lý thì chữ Không cũng sẽ là chân lý.
(Xem: 7762)
Đây là 4 pháp, 4 nguyên tắc sống mà tiền thân chư Phật, tức chư Bồ-tát thường áp dụng để nhiếp hóa, cảm hóa chúng sanh...
(Xem: 5417)
Có những người sinh trưởng ở những nơi mà niềm tin về tái sinh là một thành phần trong nền văn hóa của họ.
(Xem: 18689)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14491)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13665)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13628)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11908)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13328)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13725)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 14007)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13310)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15077)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16235)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant