Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 03: Kết Luận

22 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6436)
Phần 03: Kết Luận
KHÁI LUẬN TRIẾT LÝ KINH HOA NGHIÊM
Thích Đức Nhuận
Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000

Phần III

Kết Luận


Đạo Phật nhìn nhận hai nguyên lý căn bản:

*.. Hiện Tượng Chuyển Biến Vô Thường

Hết thảy sự vật trên thế gian này, không một sự vật nào được coi là có tính cách bất biến, bất di dịch cả. Từ một mảy lân hư trần đến trăng sao, sông núi nói chung là, mọi pháp hữu vi đều là huyễn mộng, và phải chịu chung qui luật nhân duyên, vô thường của thiên nhiên: sinh, trụ, dị, diệt.

*.. Bản Thể Thường Trụ Bất Biến

Nếu hiện tượng giới là chuyển biếnvô thường thì cũng có nghĩa là tất cả sự vật biến đổi đó đều hiện hữu, "tính cách hiện hữu" như vậy, mặc nhiên đã nói lên cái đặc tính của bản thểvũ trụ vốn không sinh,không diệt, không thường, không đoạn, không đến, không đi…tứn TÂM CHÂN NHƯ hay Pháp thân của Như Lai.

Đứng về phương diện hiện tượng tương đối, sai biệt thì,vũ trụvô số thế giới, gọi chung là Thập phương vi trần thế giới.

Đứng về phương diện bản thể tuyệt đối thì thực tướng của vạn Pháp vốn vô tướng, Sắc chẳng khác gì Không, Không tức là Sắc. Tính tức là tướng, Tâm tức là Vật, Bản thể tức Hiện tướng, lý, Sự, và Sự sự đều vô ngại trong pháp giới bao la.

Để hóa giải mọi bất đồng và dung hợp mọi mâu thuẫn trong thế gian đầynghịch cảnh khổ đau này, đồng tử Thiện Tài đã đứng trên lập trường bốn chân lý: Khổ, Tập, Diệt, Đạo, mà Đức Phật từ bi đã nói khi Ngài khởi chuyển Pháp luân tại Lộc Uyển:

*.. Chân Lý Thứ Nhất (Khổ đế)

Con người sinh ra đời đều phải nhận chịu những nỗi khổ đau, như : sống khổ, già khổ,bệnh khổ, chết khổ,oán thù phải gần gũi là khổ, phải xa cách những ngườ�i thân yêu là khổ, những sự ham muốn mong cầu không được vừa lòng như ý là khổ,thân ngũ ấm xí thịnh là khổ. Sự khổ vốn sẳn có lại làm phát sinh cái khổ phiền não, gọi là khổ khổ. Mọi loại khổ phiền não như ốm đau, thời tiết mưa nắng, nóng lạnh bất thường làm cho mất sự quân bình trong cơ thể, gọi là hoại khổ. Mọi con người đã sinh ra trong cuộc đời đều mang theo trong mình (cái) tính vô ngã, vô thường dời đổi, hợp tan…gọi là hành khổ.Tất cả nỗi khổ não ấy là kết quả tích lũy của cái Nghiệp ( Karma) luân hồi.

*.. Chân Lý Thứ Hai ( Tập đế).

  • Nguyên nhân của mọi sự khổ là do sự mê lầm của chúng sinh "tự thân tạo tác", rồi cái này làm nhân làm duyên sinh ra cái khác nữa. Phật giáo gọi là Mười Hai Nhân Duyên (dvàdàngahpratityasamutpada):

1.. Vô Minh : chỉ cho trạng thái mê muội của chúng sinh không tự biết "vì đâu mà có rồi vì đâu mà mất".

2..Hành: bởi các hàng động tạo nghiệp lành dữ, do thân- khẩu –ý của chúng sinh gây ra mà không nghĩ đến quả báo luân hồi.

3.. Thức: nghiệp thức.

4.. Danh Sắc: Có nghiệp thức là có sự luân chuyển, nên khi Tâm Thức chuyền sự sống sang kiếp khác (con mình). Tâm (Danh) phải nương vào vật ( Sắc) là tinh huyếtcha mẹ để sự sống được nảy nở, tồn tại.

5.. Lục Nhập: một khi sự sống đã được nảy nở, tồn tại ( kết thai )thì 6 quan năng (6 căn, mắt, tai,mũi, lưỡi,thân,ý) thành hình (bào thai).

6.. Xúc: Sự tiếp xúc của 6 quan năng trong khi đối cảnh.

7.. thụ: Cảm giác, lĩnh thụ mọi sự vui, buồn, tốt, xấu, rồi nhìn nhận các món ấy đưa vào ý thức.

8.. Ái : tình yêu , do ý thức nhận được liền nảy sinh tư tưởng ưa mến (quen nết).

9.. Thủ : Khi đã ưa muốn thì sinh lòng chấp trước, giữ gìn.

10.. Hữu : là có ( hay là cõi ), có ham muốn ắt phải nhận lấy quả báo trong ba cõi, sáu đường.

11.. Sinh : đã có Ái, Thủ,Hữu thì sẽ lại truyền sinh vào kiếp khác (nhân quả về sau trong các cõi thụ sinh).

12.. Lão, tử: cuối cùng đưa đến sự già, chết.

*.. Chân Lý Thứ Ba (Diệu đế).

Như trên đã nói, sở dĩ chúng sinh vẫn mãi bị đau khổ, phiền não sinh tử là vì Vô minh mê tối nên mới tạo nghiệp vọng động (Hành, Thức) mà có thân Ngũ Uẩn (Danh, sắc)rồi sáu căn tiếp xúc với sáu trần cảnh (sắc- thanh, hương- vị-xúc- pháp ) (Lục Nhập) sinh cảm giác,lĩnh thụ (Thụ).thì nảy sinh lòng ham muốn, ưa thích (Ái), bởi tham muốn chấp giữ tạo thành thói quen (Thủ). Vì đã gây nhân tham ái ắt phải nhận lấy quả báo (hữu). Do có Ái, thủ,Hữu sẽ phải sinh ra trong đời sau (Sinh) và tiếp tục nhận chịu những cảnh khổ : già và chết (Lão tử).

Vậy muốn chấm dứt khổ đau, sinh tử luân hồi thì phải cắt đứt vòng xích 12 nhân duyên . Nghĩa là, phải diệt trừ vô minh ( hoặc), không gây nghiệp (nghiệp),tạo khổ (khổ). Mà vô minh diệt thì Hành diệt…cho đến lão tử cũng đều bị diệt. Có như thế cuộc của con người, ở đời này và đời sau, mới vơi được nguồn đau khổ, và được an lạc, tự tại, giải thoát.

*.. Chân Lý Thứ Tư (Đạo đế).

Tức trình bày Phương Pháp Diệt Trừ Nguyên Nhân Sự Khổ.

Nhưng muốn diệt trừ nguyên nhân sự khổ phải làm thế nào? Tất phải đi theo con đường (Đạo) chân chính do Đức Phật đã vạch sẵn, gồm có tám nhánh ( Bát chính đạo: Aryàstangamàrganàmani):

1.. Hiểu biết chân chính.

2.. Suy tư chân chính.

3.. Lời nói chân chính.

4.. Việc làm chân chính.

5.. Đời sống chân chính.

6.. Siêng năng chân chính.

7.. Nhớ nghĩ chân chính.

8.. Định tâm chân chính.

Tronh hai đế Khổ (quả), Tập (nhân) thuộc về nhân quả thế gian.

Hai đế Diệt (quả), Đạo (nhân) thuộc về nhân quả xuất thế gian.

Trong mười 12 nhân duyên: Vô minh: Hành là nhân thuộc về quá khứ; Thức, Danh Sắc, Lục nhập, Xúc, thụ thuộc quả hiện tại; Ái, Thủ, Hữu là nhân hiện tại. Còn sinh, Lão tử thuộc về quả vị lai.

".. đã từ lâu, chúng ta quen "sống say chết mộng" hay "sống như một kẻ đã chết rồi". Chúng ta chẳng hề bao giờ quan tâm đến con người thật, hay ông chủ nhà của chính mình, mà chỉ quen sống với vọng tưởng khách trần ảo ảnh, mải mê đuổi bắt những bóng hình vật vờ của ngoại cảnh chập chờn vô định, và cam tâm làm nô lệ cho thất tình lục dục mà thôi! Nếu chúng ta cứ mãi tiếp tục nếp sống như vậy chẳng chịu sửa đổi, thì có khác gì những bộ máy vô hồn, không ý thức được công việc mình làm, khác nào như ngọn cỏ lá cây vô tri vô giác, thực là uổng phí cả một kiếp người! (BTD, trang1220).

" Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi!"

" Hãy im lặng là rất sống, rất sáng!"

" Hãy đem lòng mình đối diện với hồn của lịch sử!"

" Mỗi sầu thảm, mỗi khổ đau đều bắt rễ bén mầm trong cái tối tăm, tham lam, ác độc, thù hận, nghi kỵ, thấp hèn, sợ sệt của con người cả. Con người đang xô đẩy nhau vào cái trọng chướng trọn vẹn để rồi phiêu lưu trong cuộc luân hồi phiền não vô thủy vô chung.

Sao không cứu lấy họ?

Sao không đưa họ đến Thắng địa?

" Không ai cứu nổi họ đâu! Chỉ có họ tự cứu lấy. Không thần thánh nào nổi nhân loại hết. Chỉ có nhân loại tự cứu lấy mình thôi. Con người là hơn cả, con ngườitối thắng ( chữ kinh hoa nghiêm). Con người làm thần thánh lấy chính mình và làm thần thánh lấy vũ trụ. Chỉ có con người mới thực hiện được mọi sự tốt đẹp của vũ trụ mà thôi.

" Con người có toàn quyền tự do định đoạt lấy cuộc sống của mình. Nhưng điều kiện tiên quyết là mỗi con người phải biết gột rửa tâm hồn cho thật trong sạch, nhóm lên ngọn lửa thương yêu, hoan lạc và vui sống, để xóa đi những áng mây mờ thù hận, chia rẽ, chiến tranh, áp bức và bất công trong cuộc đời, không còn phân biệt chủng tộc, màu da, tiếng nói , thành kiến quốc gia hùng cường hay nhược tiểu để…tất cả cùng nhau chung sức kiến tạo một xã hội người văn minh, Giác Ngộ và Giải Thoát".(1)

" Xã hội loài người tốt đẹp hay không tùy theo nghiệp báo của mỗi cá nhân trong xã hội đó tạo thành. Nghiệp chuyển biến không ngừng, nhân làm quả, quả lại làm nhân, các chủng tử thiện, ác được huân tập trong A lại gia thức, để khi gặp đủ cơ duyên thì liền phát khởi hiện hành.

" Tư tưởnghành vi của một người thiện sẽ tạo cho người đó và cho cả môi trường chung quanh y những hoàn cảnh sinh sống tốt đẹp.

" Tư tưởng và hành động của nhiều người thiện cùng trong một xã hội góp lại, sẽ gây cho cộng đồng xã hội đó một cộng nghiệp tốt lành, để tạo nên một nếp sống tươi vui, hạnh phúc.

" Trái lại, tư tưởnghành vi của một người độc ác sẽ tạo cho người ấy và xã hội của y những hoàn cảnh xấu xa bi đát, gieo rắc tai ươngđau khổ cho hàng triệu sinh linh. Và nếu lại có nhiều người hung tàn bạo ngược, cùng trong một xã hội, rải ra những luồng tư tưởng và hàng vi ác độc, sẽ gây tai ương khủng khiếp và tạo nên một cộng nghiệp nặng nề cho toàn thể, triệu triệu người trong xã hội đó cùng phải gánh chịu hậu quả thảm khốc thê lương".( BTD,trang1151- 1152).

Giấc mơ tuyệt mỹ của đồng tử Thiện TàiHy Vọng biến cõi trần gian khổ đau này thành cảnh Tịnh Độ đầy tình thương chân thật, đầy thiện tính cao quý. Muốn cho thế giới được thanh bình, toàn dân được tròn đầy hạnh phúc thì, theo đồng tử Thiện Tài, chỉ còn Con Đường BỒ TÁT ĐẠO thênh thang rộng mở, là nơi gặp gỡ lý tưởng của mọi tôn giáo, mọi màu da sắc tộc, mọi văn hóa bất đồng, nhưng cùng chung một Tâm Đại Bi bao la dạt dào, cùng thiết tha mong càu xây đắp hạnh phúc, hòa bình chung, cùng hướng về nẽo chân, thiện, mỹ và cùng thực hành Bồ Tát Đạo bằng pháp môn Lục độ Ba la mậtTứ vô lượng tâm.

Lý tưởng hành trì Bồ Tát Đạođồng tử Thiện Tài hằng mến yêu ấp ủ trong lòng là một lý tưởng cao xa, thiết tưởng cao xa, thiết tưởng đây cũng là lý tưởng chung của mọi tâm hồn hướng thượng, có thể là của tác giả, của các bạn, của tôi, của tất cả chúng ta, vốn sẵn mang trong mình một trái tim trong, một khối óc sáng, và cốt cách của một "Phật tính" cao cả tuyệt vời.

Đọc tác phẩm "BỒ TÁT ĐẠO hay Con Đường Lý Tưởng" của Minh Đức Thanh Lương, chúng ta nhận thấy ngay cái dụng ý của tác giả muốn đem hết tâm thành gửi gắm trong vai đồng tử Thiện Tài đi cầu Đạo Bồ Tát, để nhân đó có thể trình bày được hết mọi tông phái của Đạo Phật, Tịnh Độ tông, Mật tông, Thiền tông, Duy Thức tông, Bát Nhã tông, Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông v.v …cùng các pháp môn chính yếu, như: Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Bát Chính Đạo, 37 Phẩm Trợ Đạo, Lục Độ, Tứ Vô Lượng Tâm….và nói lên được những giáo lý cao thâm của Phật Giáo đại thừa: Vạn Vật Đồng Nhất Thể, Nhất Thiết Duy Tâm Tạo, Nhân Quả, Nghiệp Báo, Chân Như Duyên Khởi, Pháp Duyên Khởi, Nhất thiết Chúng Sinh Giai Hữu Phật Tính, Vạn Thù Qui Nhất Bản, Nhất Bản Tán Vạn Thù, Lý trung Đạo, Lý Bất Nhị, Sự Lý Viên dung, Sự Sự Vô Ngại, Một Là Tất Cả, Tất Cả Là Một v.v…Khác nào một người có khiếu thẩm mỹ đã góp nhặt những bông hoa tươi thắm muôn màu xâu kết lại thành một tràng hoa tuyệt mỹ, hay một nhạc công điêu luyện đã đem hết tâm hồn say sưa của mình phổ lên những điệu nhạc du dương huyền diệu…

Vì muốn cho các bạn tự tìm lấy để được hưởng cái thú thưởng thức những bông hoa tuyệt mỹ cả về ý lẫn lời trong tác phẩm này, tôi không muốn làm mất nhiều thì giờ quý báo của các bạn bằng cách đi sâu thêm nữa vào chi tiết của bộ sách, vì tôi tự cảm thấy viết đã quá dài, chỉ hân hoan mời bạn hãy đọc và thực thi BỒ TÁt ĐẠO hay cũng đi trên Con Đường Lý Tưởngđồng tử Thiện Tài đã vạch ra, để đáp lại tấm lòng thành của tác giả hằng tha thiết kêu gọi hết thảy chúng ta.

Viết tại chùa Giác Minh, Việt Nam, ngày đầu xuân năm Tân Dậu- Phật lịch 2525 (tháng 3 DL 1981).

Trí Tạng- THÍCH ĐỨC NHUẬN

- Hết -

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6791)
Hai chữ quy y có nghĩa là : quay về hay hồi chuyển. Y là nương tựa hoặc dựa vào, những hành vi hồi chuyển nương tựa hoặc quay đầu dựa dẩm tin tưởng.
(Xem: 6214)
Niềm tin sâu xa nhất trong giáo lý nhà Phật là tất cả mọi người đều có thể tự cải biến mình trong từng giây phút một. Chẳng có gì gọi là định mệnh cả.
(Xem: 6539)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn.
(Xem: 7797)
Nhẫn nhục là chịu nhịn những điều sỉ nhục xấu hổ, nhục nhã, chịu đựng tổn thương trước những cảnh, sự việc không vừa lòng, nghịch ý, trái tai gai mắt;
(Xem: 6302)
Nền giáo dục hòa bình của Đạo Phật là một con đường đạo đức nhân bảnthiết thực, là căn cứ trên chân lý từ bi, công bằng và...
(Xem: 6619)
Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy mọi sự vật, hiện tượng trong phạm vi giới hạn của đôi mắt mình, nhưng...
(Xem: 5740)
Tôi đến với Phật pháp vì … quá khổ.
(Xem: 5645)
Phải luôn luôn có tâm tùy hỷ đến tất cả mọi người, nếu chưa được giải thoát thì sau khi chết, năng lực tùy hỷ sẽ đẩy mình đến những cảnh giới tốt.
(Xem: 5693)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 6808)
Chúng ta biết tu là chúng ta biết sống. Một thứ tài sản không bao giờ bị mất. Ai muốn giàu, muốn sung túc thì hãy ráng nhớ giữ gìn tài sản này.
(Xem: 6082)
Thuyết bốn Đế, tức bốn Chân lýcăn bản, là cốt lõi tinh túy của đạo Phật, là nội dung bài thuyết pháp đầu tiên của Phật ở Vườn Nai (Bénarès).
(Xem: 7096)
Đạo Phật thường quán niệmsuy tưởng về khổ đau vì đó là kinh nghiệm chung của toàn thể nhân loại.
(Xem: 6213)
Chúng ta chẳng cần tìm Phật ở đâu xa, ngài luôn luôn ở ngay trong cuộc đời, nhưng chúng ta không thấy, vì ...
(Xem: 6176)
Chúng ta có thể tìm ra chánh pháp của Phật, nghĩa là chân lý, ở khắp mọi nơi, chứ không bắt buộc chỉ tìm trong kinh điển.
(Xem: 6610)
Chúng ta đã tìm Phật và tìm Pháp, nay phải đi tìm Tăng cho đủ Tam Bảo, nói cho đủ là Tăng già, phiên âm chữ Phạn Sangha.
(Xem: 5907)
Dù là xuất gia hay tại gia, thường niệm pháp Quy Y trong đời sống, lấy Tam Bảo làm mục đích làm lợi ích cho Dân Tộc và cho cả chúng sinh.
(Xem: 6063)
Kinh sách và Đạo Pháp của Phật không phải giúp để góp nhặt sự hiểu biết mà phải dùng để tự biến cải lấy chính ta.
(Xem: 6457)
Tâm chúng sinh và Phật vốn không khác. Tất cả đều do tâm tạo. Mười cõi cũng do tâm tạo.
(Xem: 5697)
" Nầy các Tỳ kheo Như Lai nói tác ý tức là nghiệp vì có ý muốn làm mới có hành động thân khẩu ý ". Như vậy mười nghiệp lành là 10 điều giúp cho con người thực hiện trong sạch hoá thân khẩu và ý .
(Xem: 6841)
Khái niệm về sự tái sinh không phải là một khái niệm đặc thù của Phật Giáo mà đấy chỉ là một học thuyết chủ trương sự « đầu thai »
(Xem: 6013)
Có những niềm tin gây mê lầm, tội lỗi, gieo tai họa cho chính những người mang niềm tin đó mà họ không hay không biết, hoặc gieo tai họa lên nhiều người...
(Xem: 5882)
Theo kinh Lăng-già, Bồ-tát vì muốn độ tất cả chúng sanh đạt đến Niết-bàn nên phát nguyện ở lại thế giới nhiều khổ đau này để làm lợi ích cho chúng sanh.
(Xem: 6578)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5488)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5563)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 8078)
Mười nghiệp lành không những ngăn giữ chúng sanh khỏi bị đọa lạc vào bốn con đường đau khổ, mà còn mở cánh cửa thênh thang hạnh phúc an vui của phước báu nhân thiên sang cả.
(Xem: 6143)
Theo tâm lýkinh nghiệm, việc chọn lựa một tông phái để theo, phần lớn tùy thuộc vào sở thích và môi trường sinh sống của từng người.
(Xem: 5715)
Tất cả các hệ thống giáo lý phong phú của đạo Phật chỉ có một mục đích duy nhất là trình bày phương pháp và đường lối giải thoát,
(Xem: 8858)
Một người đã tin ở luật nhân quả trong đời hiện tại thì cũng phải tin ở luật nhân quả các đời quá khứ, và vị lai.
(Xem: 6530)
Thực tế cho chúng ta thấy, người học đạo thì nhiều, nhưng để sửa tâm tánh thì không bao nhiêu, đó là kết quả do việc không chịu lắng nghe.
(Xem: 5881)
"Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyền thuộc, là nơi nương tựa" .
(Xem: 5787)
Ngày nay phong trào nghiên cứu Phật học không còn bị thu hẹp trong giới Phật giáo mà đã phổ biến vào mọi tầng lớp của xã hội, không phần biệt Tôn giáo.
(Xem: 5291)
Học Phật là học con đường trở về với chân tâm, với Phật tánh—vốn hàm tàng nơi chính mình và tất cả chúng sinh.
(Xem: 6720)
Phật giáo nguyên thủy, xuất phát từ miền nam Ấn Độ, rồi được truyền sang Tích Lan, từ Tích Lan truyền qua Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào...
(Xem: 6954)
Sám hối không có nghĩa là hết tội nhưng nó có mãnh lực làm cho tâm mình thanh thản, nhẹ nhàng vì vậy nó giúp ngăn hay chận bớt những ác nghiệp mà mình đã tạo ra.
(Xem: 11074)
Tứ đếgiáo nghĩa cơ bản dùng để giải thích mọi hiện tượng nhân sinh vũ trụ được quy nạp từ thập nhị nhân duyên, là con đường trung đạo duy nhất giải thoát sinh tử luân hồi.
(Xem: 8034)
“Những Điều Phật Đã Dạy” là một trong những quyển sách nói về Phật học bán chạy nhất ở các nước phương Tây, được dịch ra nhiều thứ tiếng...
(Xem: 6061)
Tham sống sợ chết, đó là sự thật của người đời. Thế nhưng tại sao lại giết hại, cắt đứt sự sống của chúng sanh khác?
(Xem: 5412)
Theo nguyên tắc chung, tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗi người.
(Xem: 7066)
Quan niệm về cái gọi là "đời cha ăn mặn đời con khát nước" cho rằng có một cái gì vô hình lưu truyền cái nhân xấu do đời cha tạo ra và chuyển giao cái quả xấu do nhân xấu mang lại cho con cái.
(Xem: 6004)
Học Phật không phải chỉ biết được lời Phật dạy, biết qua kiến thức suông để đàm luận, lý luận, mà cần phải thực tập, áp dụng vào cuộc sống của mỗi người trong sự nghe thấy, tư duy và hành động.
(Xem: 6436)
Trong Phật Pháp, đức Phật đã chỉ sẵn một phương pháp, một nghệ thuật hay còn gọi là một bí quyết để có một đời sống hạnh phúc, đó là gìn giữ năm giới.
(Xem: 21086)
Vô thườngtính chất căn bản của đời sống; tất cả mọi sự vật sinh ra có điều kiện đều có tính chất của bốn giai đoạn “thành, trụ, hoại, diệt”
(Xem: 5830)
Mỉm một nụ cười, trở về với một hơi thở, bước một bước chân thảnh thơi... cũng có thể là những phép lạ giữa một cuộc sống căng thẳng và quá bận rộn.
(Xem: 7184)
Về phương diện đạo lý, Phật giáo cao hơn các hệ thống đạo đức khác, nhưng đạo đức chỉ là bước đầu chứ không phải cứu cánh của Phật giáo.
(Xem: 8615)
Bát Chánh Đạogiáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo.
(Xem: 6897)
Chữ Không của Bát Nhã đứng vững là dựa trên lý nhân duyên, nếu lý nhân duyênchân lý thì chữ Không cũng sẽ là chân lý.
(Xem: 7751)
Đây là 4 pháp, 4 nguyên tắc sống mà tiền thân chư Phật, tức chư Bồ-tát thường áp dụng để nhiếp hóa, cảm hóa chúng sanh...
(Xem: 5394)
Có những người sinh trưởng ở những nơi mà niềm tin về tái sinh là một thành phần trong nền văn hóa của họ.
(Xem: 18647)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14448)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13630)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13567)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11842)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13293)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13687)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13960)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13274)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15045)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16185)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant