Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 03: Kết Luận

22 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6468)
Phần 03: Kết Luận
KHÁI LUẬN TRIẾT LÝ KINH HOA NGHIÊM
Thích Đức Nhuận
Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000

Phần III

Kết Luận


Đạo Phật nhìn nhận hai nguyên lý căn bản:

*.. Hiện Tượng Chuyển Biến Vô Thường

Hết thảy sự vật trên thế gian này, không một sự vật nào được coi là có tính cách bất biến, bất di dịch cả. Từ một mảy lân hư trần đến trăng sao, sông núi nói chung là, mọi pháp hữu vi đều là huyễn mộng, và phải chịu chung qui luật nhân duyên, vô thường của thiên nhiên: sinh, trụ, dị, diệt.

*.. Bản Thể Thường Trụ Bất Biến

Nếu hiện tượng giới là chuyển biếnvô thường thì cũng có nghĩa là tất cả sự vật biến đổi đó đều hiện hữu, "tính cách hiện hữu" như vậy, mặc nhiên đã nói lên cái đặc tính của bản thểvũ trụ vốn không sinh,không diệt, không thường, không đoạn, không đến, không đi…tứn TÂM CHÂN NHƯ hay Pháp thân của Như Lai.

Đứng về phương diện hiện tượng tương đối, sai biệt thì,vũ trụvô số thế giới, gọi chung là Thập phương vi trần thế giới.

Đứng về phương diện bản thể tuyệt đối thì thực tướng của vạn Pháp vốn vô tướng, Sắc chẳng khác gì Không, Không tức là Sắc. Tính tức là tướng, Tâm tức là Vật, Bản thể tức Hiện tướng, lý, Sự, và Sự sự đều vô ngại trong pháp giới bao la.

Để hóa giải mọi bất đồng và dung hợp mọi mâu thuẫn trong thế gian đầynghịch cảnh khổ đau này, đồng tử Thiện Tài đã đứng trên lập trường bốn chân lý: Khổ, Tập, Diệt, Đạo, mà Đức Phật từ bi đã nói khi Ngài khởi chuyển Pháp luân tại Lộc Uyển:

*.. Chân Lý Thứ Nhất (Khổ đế)

Con người sinh ra đời đều phải nhận chịu những nỗi khổ đau, như : sống khổ, già khổ,bệnh khổ, chết khổ,oán thù phải gần gũi là khổ, phải xa cách những ngườ�i thân yêu là khổ, những sự ham muốn mong cầu không được vừa lòng như ý là khổ,thân ngũ ấm xí thịnh là khổ. Sự khổ vốn sẳn có lại làm phát sinh cái khổ phiền não, gọi là khổ khổ. Mọi loại khổ phiền não như ốm đau, thời tiết mưa nắng, nóng lạnh bất thường làm cho mất sự quân bình trong cơ thể, gọi là hoại khổ. Mọi con người đã sinh ra trong cuộc đời đều mang theo trong mình (cái) tính vô ngã, vô thường dời đổi, hợp tan…gọi là hành khổ.Tất cả nỗi khổ não ấy là kết quả tích lũy của cái Nghiệp ( Karma) luân hồi.

*.. Chân Lý Thứ Hai ( Tập đế).

  • Nguyên nhân của mọi sự khổ là do sự mê lầm của chúng sinh "tự thân tạo tác", rồi cái này làm nhân làm duyên sinh ra cái khác nữa. Phật giáo gọi là Mười Hai Nhân Duyên (dvàdàngahpratityasamutpada):

1.. Vô Minh : chỉ cho trạng thái mê muội của chúng sinh không tự biết "vì đâu mà có rồi vì đâu mà mất".

2..Hành: bởi các hàng động tạo nghiệp lành dữ, do thân- khẩu –ý của chúng sinh gây ra mà không nghĩ đến quả báo luân hồi.

3.. Thức: nghiệp thức.

4.. Danh Sắc: Có nghiệp thức là có sự luân chuyển, nên khi Tâm Thức chuyền sự sống sang kiếp khác (con mình). Tâm (Danh) phải nương vào vật ( Sắc) là tinh huyếtcha mẹ để sự sống được nảy nở, tồn tại.

5.. Lục Nhập: một khi sự sống đã được nảy nở, tồn tại ( kết thai )thì 6 quan năng (6 căn, mắt, tai,mũi, lưỡi,thân,ý) thành hình (bào thai).

6.. Xúc: Sự tiếp xúc của 6 quan năng trong khi đối cảnh.

7.. thụ: Cảm giác, lĩnh thụ mọi sự vui, buồn, tốt, xấu, rồi nhìn nhận các món ấy đưa vào ý thức.

8.. Ái : tình yêu , do ý thức nhận được liền nảy sinh tư tưởng ưa mến (quen nết).

9.. Thủ : Khi đã ưa muốn thì sinh lòng chấp trước, giữ gìn.

10.. Hữu : là có ( hay là cõi ), có ham muốn ắt phải nhận lấy quả báo trong ba cõi, sáu đường.

11.. Sinh : đã có Ái, Thủ,Hữu thì sẽ lại truyền sinh vào kiếp khác (nhân quả về sau trong các cõi thụ sinh).

12.. Lão, tử: cuối cùng đưa đến sự già, chết.

*.. Chân Lý Thứ Ba (Diệu đế).

Như trên đã nói, sở dĩ chúng sinh vẫn mãi bị đau khổ, phiền não sinh tử là vì Vô minh mê tối nên mới tạo nghiệp vọng động (Hành, Thức) mà có thân Ngũ Uẩn (Danh, sắc)rồi sáu căn tiếp xúc với sáu trần cảnh (sắc- thanh, hương- vị-xúc- pháp ) (Lục Nhập) sinh cảm giác,lĩnh thụ (Thụ).thì nảy sinh lòng ham muốn, ưa thích (Ái), bởi tham muốn chấp giữ tạo thành thói quen (Thủ). Vì đã gây nhân tham ái ắt phải nhận lấy quả báo (hữu). Do có Ái, thủ,Hữu sẽ phải sinh ra trong đời sau (Sinh) và tiếp tục nhận chịu những cảnh khổ : già và chết (Lão tử).

Vậy muốn chấm dứt khổ đau, sinh tử luân hồi thì phải cắt đứt vòng xích 12 nhân duyên . Nghĩa là, phải diệt trừ vô minh ( hoặc), không gây nghiệp (nghiệp),tạo khổ (khổ). Mà vô minh diệt thì Hành diệt…cho đến lão tử cũng đều bị diệt. Có như thế cuộc của con người, ở đời này và đời sau, mới vơi được nguồn đau khổ, và được an lạc, tự tại, giải thoát.

*.. Chân Lý Thứ Tư (Đạo đế).

Tức trình bày Phương Pháp Diệt Trừ Nguyên Nhân Sự Khổ.

Nhưng muốn diệt trừ nguyên nhân sự khổ phải làm thế nào? Tất phải đi theo con đường (Đạo) chân chính do Đức Phật đã vạch sẵn, gồm có tám nhánh ( Bát chính đạo: Aryàstangamàrganàmani):

1.. Hiểu biết chân chính.

2.. Suy tư chân chính.

3.. Lời nói chân chính.

4.. Việc làm chân chính.

5.. Đời sống chân chính.

6.. Siêng năng chân chính.

7.. Nhớ nghĩ chân chính.

8.. Định tâm chân chính.

Tronh hai đế Khổ (quả), Tập (nhân) thuộc về nhân quả thế gian.

Hai đế Diệt (quả), Đạo (nhân) thuộc về nhân quả xuất thế gian.

Trong mười 12 nhân duyên: Vô minh: Hành là nhân thuộc về quá khứ; Thức, Danh Sắc, Lục nhập, Xúc, thụ thuộc quả hiện tại; Ái, Thủ, Hữu là nhân hiện tại. Còn sinh, Lão tử thuộc về quả vị lai.

".. đã từ lâu, chúng ta quen "sống say chết mộng" hay "sống như một kẻ đã chết rồi". Chúng ta chẳng hề bao giờ quan tâm đến con người thật, hay ông chủ nhà của chính mình, mà chỉ quen sống với vọng tưởng khách trần ảo ảnh, mải mê đuổi bắt những bóng hình vật vờ của ngoại cảnh chập chờn vô định, và cam tâm làm nô lệ cho thất tình lục dục mà thôi! Nếu chúng ta cứ mãi tiếp tục nếp sống như vậy chẳng chịu sửa đổi, thì có khác gì những bộ máy vô hồn, không ý thức được công việc mình làm, khác nào như ngọn cỏ lá cây vô tri vô giác, thực là uổng phí cả một kiếp người! (BTD, trang1220).

" Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi!"

" Hãy im lặng là rất sống, rất sáng!"

" Hãy đem lòng mình đối diện với hồn của lịch sử!"

" Mỗi sầu thảm, mỗi khổ đau đều bắt rễ bén mầm trong cái tối tăm, tham lam, ác độc, thù hận, nghi kỵ, thấp hèn, sợ sệt của con người cả. Con người đang xô đẩy nhau vào cái trọng chướng trọn vẹn để rồi phiêu lưu trong cuộc luân hồi phiền não vô thủy vô chung.

Sao không cứu lấy họ?

Sao không đưa họ đến Thắng địa?

" Không ai cứu nổi họ đâu! Chỉ có họ tự cứu lấy. Không thần thánh nào nổi nhân loại hết. Chỉ có nhân loại tự cứu lấy mình thôi. Con người là hơn cả, con ngườitối thắng ( chữ kinh hoa nghiêm). Con người làm thần thánh lấy chính mình và làm thần thánh lấy vũ trụ. Chỉ có con người mới thực hiện được mọi sự tốt đẹp của vũ trụ mà thôi.

" Con người có toàn quyền tự do định đoạt lấy cuộc sống của mình. Nhưng điều kiện tiên quyết là mỗi con người phải biết gột rửa tâm hồn cho thật trong sạch, nhóm lên ngọn lửa thương yêu, hoan lạc và vui sống, để xóa đi những áng mây mờ thù hận, chia rẽ, chiến tranh, áp bức và bất công trong cuộc đời, không còn phân biệt chủng tộc, màu da, tiếng nói , thành kiến quốc gia hùng cường hay nhược tiểu để…tất cả cùng nhau chung sức kiến tạo một xã hội người văn minh, Giác Ngộ và Giải Thoát".(1)

" Xã hội loài người tốt đẹp hay không tùy theo nghiệp báo của mỗi cá nhân trong xã hội đó tạo thành. Nghiệp chuyển biến không ngừng, nhân làm quả, quả lại làm nhân, các chủng tử thiện, ác được huân tập trong A lại gia thức, để khi gặp đủ cơ duyên thì liền phát khởi hiện hành.

" Tư tưởnghành vi của một người thiện sẽ tạo cho người đó và cho cả môi trường chung quanh y những hoàn cảnh sinh sống tốt đẹp.

" Tư tưởng và hành động của nhiều người thiện cùng trong một xã hội góp lại, sẽ gây cho cộng đồng xã hội đó một cộng nghiệp tốt lành, để tạo nên một nếp sống tươi vui, hạnh phúc.

" Trái lại, tư tưởnghành vi của một người độc ác sẽ tạo cho người ấy và xã hội của y những hoàn cảnh xấu xa bi đát, gieo rắc tai ươngđau khổ cho hàng triệu sinh linh. Và nếu lại có nhiều người hung tàn bạo ngược, cùng trong một xã hội, rải ra những luồng tư tưởng và hàng vi ác độc, sẽ gây tai ương khủng khiếp và tạo nên một cộng nghiệp nặng nề cho toàn thể, triệu triệu người trong xã hội đó cùng phải gánh chịu hậu quả thảm khốc thê lương".( BTD,trang1151- 1152).

Giấc mơ tuyệt mỹ của đồng tử Thiện TàiHy Vọng biến cõi trần gian khổ đau này thành cảnh Tịnh Độ đầy tình thương chân thật, đầy thiện tính cao quý. Muốn cho thế giới được thanh bình, toàn dân được tròn đầy hạnh phúc thì, theo đồng tử Thiện Tài, chỉ còn Con Đường BỒ TÁT ĐẠO thênh thang rộng mở, là nơi gặp gỡ lý tưởng của mọi tôn giáo, mọi màu da sắc tộc, mọi văn hóa bất đồng, nhưng cùng chung một Tâm Đại Bi bao la dạt dào, cùng thiết tha mong càu xây đắp hạnh phúc, hòa bình chung, cùng hướng về nẽo chân, thiện, mỹ và cùng thực hành Bồ Tát Đạo bằng pháp môn Lục độ Ba la mậtTứ vô lượng tâm.

Lý tưởng hành trì Bồ Tát Đạođồng tử Thiện Tài hằng mến yêu ấp ủ trong lòng là một lý tưởng cao xa, thiết tưởng cao xa, thiết tưởng đây cũng là lý tưởng chung của mọi tâm hồn hướng thượng, có thể là của tác giả, của các bạn, của tôi, của tất cả chúng ta, vốn sẵn mang trong mình một trái tim trong, một khối óc sáng, và cốt cách của một "Phật tính" cao cả tuyệt vời.

Đọc tác phẩm "BỒ TÁT ĐẠO hay Con Đường Lý Tưởng" của Minh Đức Thanh Lương, chúng ta nhận thấy ngay cái dụng ý của tác giả muốn đem hết tâm thành gửi gắm trong vai đồng tử Thiện Tài đi cầu Đạo Bồ Tát, để nhân đó có thể trình bày được hết mọi tông phái của Đạo Phật, Tịnh Độ tông, Mật tông, Thiền tông, Duy Thức tông, Bát Nhã tông, Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông v.v …cùng các pháp môn chính yếu, như: Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Bát Chính Đạo, 37 Phẩm Trợ Đạo, Lục Độ, Tứ Vô Lượng Tâm….và nói lên được những giáo lý cao thâm của Phật Giáo đại thừa: Vạn Vật Đồng Nhất Thể, Nhất Thiết Duy Tâm Tạo, Nhân Quả, Nghiệp Báo, Chân Như Duyên Khởi, Pháp Duyên Khởi, Nhất thiết Chúng Sinh Giai Hữu Phật Tính, Vạn Thù Qui Nhất Bản, Nhất Bản Tán Vạn Thù, Lý trung Đạo, Lý Bất Nhị, Sự Lý Viên dung, Sự Sự Vô Ngại, Một Là Tất Cả, Tất Cả Là Một v.v…Khác nào một người có khiếu thẩm mỹ đã góp nhặt những bông hoa tươi thắm muôn màu xâu kết lại thành một tràng hoa tuyệt mỹ, hay một nhạc công điêu luyện đã đem hết tâm hồn say sưa của mình phổ lên những điệu nhạc du dương huyền diệu…

Vì muốn cho các bạn tự tìm lấy để được hưởng cái thú thưởng thức những bông hoa tuyệt mỹ cả về ý lẫn lời trong tác phẩm này, tôi không muốn làm mất nhiều thì giờ quý báo của các bạn bằng cách đi sâu thêm nữa vào chi tiết của bộ sách, vì tôi tự cảm thấy viết đã quá dài, chỉ hân hoan mời bạn hãy đọc và thực thi BỒ TÁt ĐẠO hay cũng đi trên Con Đường Lý Tưởngđồng tử Thiện Tài đã vạch ra, để đáp lại tấm lòng thành của tác giả hằng tha thiết kêu gọi hết thảy chúng ta.

Viết tại chùa Giác Minh, Việt Nam, ngày đầu xuân năm Tân Dậu- Phật lịch 2525 (tháng 3 DL 1981).

Trí Tạng- THÍCH ĐỨC NHUẬN

- Hết -

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10362)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12261)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15426)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16688)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12317)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11585)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14357)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24724)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10757)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12563)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10480)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12427)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11731)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12113)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13084)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11510)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17537)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21579)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10745)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19369)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12515)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26196)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14474)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13811)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16941)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17720)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13239)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12608)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11690)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11701)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20611)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19153)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19699)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18800)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15162)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15125)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14056)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15600)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14618)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15932)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12962)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18541)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15854)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11142)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53798)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13058)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16681)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15540)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 20039)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15636)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15467)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15260)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10478)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20467)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15621)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13126)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20354)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13371)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29104)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11792)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant