Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 03: Kết Luận

22 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6451)
Phần 03: Kết Luận
KHÁI LUẬN TRIẾT LÝ KINH HOA NGHIÊM
Thích Đức Nhuận
Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000

Phần III

Kết Luận


Đạo Phật nhìn nhận hai nguyên lý căn bản:

*.. Hiện Tượng Chuyển Biến Vô Thường

Hết thảy sự vật trên thế gian này, không một sự vật nào được coi là có tính cách bất biến, bất di dịch cả. Từ một mảy lân hư trần đến trăng sao, sông núi nói chung là, mọi pháp hữu vi đều là huyễn mộng, và phải chịu chung qui luật nhân duyên, vô thường của thiên nhiên: sinh, trụ, dị, diệt.

*.. Bản Thể Thường Trụ Bất Biến

Nếu hiện tượng giới là chuyển biếnvô thường thì cũng có nghĩa là tất cả sự vật biến đổi đó đều hiện hữu, "tính cách hiện hữu" như vậy, mặc nhiên đã nói lên cái đặc tính của bản thểvũ trụ vốn không sinh,không diệt, không thường, không đoạn, không đến, không đi…tứn TÂM CHÂN NHƯ hay Pháp thân của Như Lai.

Đứng về phương diện hiện tượng tương đối, sai biệt thì,vũ trụvô số thế giới, gọi chung là Thập phương vi trần thế giới.

Đứng về phương diện bản thể tuyệt đối thì thực tướng của vạn Pháp vốn vô tướng, Sắc chẳng khác gì Không, Không tức là Sắc. Tính tức là tướng, Tâm tức là Vật, Bản thể tức Hiện tướng, lý, Sự, và Sự sự đều vô ngại trong pháp giới bao la.

Để hóa giải mọi bất đồng và dung hợp mọi mâu thuẫn trong thế gian đầynghịch cảnh khổ đau này, đồng tử Thiện Tài đã đứng trên lập trường bốn chân lý: Khổ, Tập, Diệt, Đạo, mà Đức Phật từ bi đã nói khi Ngài khởi chuyển Pháp luân tại Lộc Uyển:

*.. Chân Lý Thứ Nhất (Khổ đế)

Con người sinh ra đời đều phải nhận chịu những nỗi khổ đau, như : sống khổ, già khổ,bệnh khổ, chết khổ,oán thù phải gần gũi là khổ, phải xa cách những ngườ�i thân yêu là khổ, những sự ham muốn mong cầu không được vừa lòng như ý là khổ,thân ngũ ấm xí thịnh là khổ. Sự khổ vốn sẳn có lại làm phát sinh cái khổ phiền não, gọi là khổ khổ. Mọi loại khổ phiền não như ốm đau, thời tiết mưa nắng, nóng lạnh bất thường làm cho mất sự quân bình trong cơ thể, gọi là hoại khổ. Mọi con người đã sinh ra trong cuộc đời đều mang theo trong mình (cái) tính vô ngã, vô thường dời đổi, hợp tan…gọi là hành khổ.Tất cả nỗi khổ não ấy là kết quả tích lũy của cái Nghiệp ( Karma) luân hồi.

*.. Chân Lý Thứ Hai ( Tập đế).

  • Nguyên nhân của mọi sự khổ là do sự mê lầm của chúng sinh "tự thân tạo tác", rồi cái này làm nhân làm duyên sinh ra cái khác nữa. Phật giáo gọi là Mười Hai Nhân Duyên (dvàdàngahpratityasamutpada):

1.. Vô Minh : chỉ cho trạng thái mê muội của chúng sinh không tự biết "vì đâu mà có rồi vì đâu mà mất".

2..Hành: bởi các hàng động tạo nghiệp lành dữ, do thân- khẩu –ý của chúng sinh gây ra mà không nghĩ đến quả báo luân hồi.

3.. Thức: nghiệp thức.

4.. Danh Sắc: Có nghiệp thức là có sự luân chuyển, nên khi Tâm Thức chuyền sự sống sang kiếp khác (con mình). Tâm (Danh) phải nương vào vật ( Sắc) là tinh huyếtcha mẹ để sự sống được nảy nở, tồn tại.

5.. Lục Nhập: một khi sự sống đã được nảy nở, tồn tại ( kết thai )thì 6 quan năng (6 căn, mắt, tai,mũi, lưỡi,thân,ý) thành hình (bào thai).

6.. Xúc: Sự tiếp xúc của 6 quan năng trong khi đối cảnh.

7.. thụ: Cảm giác, lĩnh thụ mọi sự vui, buồn, tốt, xấu, rồi nhìn nhận các món ấy đưa vào ý thức.

8.. Ái : tình yêu , do ý thức nhận được liền nảy sinh tư tưởng ưa mến (quen nết).

9.. Thủ : Khi đã ưa muốn thì sinh lòng chấp trước, giữ gìn.

10.. Hữu : là có ( hay là cõi ), có ham muốn ắt phải nhận lấy quả báo trong ba cõi, sáu đường.

11.. Sinh : đã có Ái, Thủ,Hữu thì sẽ lại truyền sinh vào kiếp khác (nhân quả về sau trong các cõi thụ sinh).

12.. Lão, tử: cuối cùng đưa đến sự già, chết.

*.. Chân Lý Thứ Ba (Diệu đế).

Như trên đã nói, sở dĩ chúng sinh vẫn mãi bị đau khổ, phiền não sinh tử là vì Vô minh mê tối nên mới tạo nghiệp vọng động (Hành, Thức) mà có thân Ngũ Uẩn (Danh, sắc)rồi sáu căn tiếp xúc với sáu trần cảnh (sắc- thanh, hương- vị-xúc- pháp ) (Lục Nhập) sinh cảm giác,lĩnh thụ (Thụ).thì nảy sinh lòng ham muốn, ưa thích (Ái), bởi tham muốn chấp giữ tạo thành thói quen (Thủ). Vì đã gây nhân tham ái ắt phải nhận lấy quả báo (hữu). Do có Ái, thủ,Hữu sẽ phải sinh ra trong đời sau (Sinh) và tiếp tục nhận chịu những cảnh khổ : già và chết (Lão tử).

Vậy muốn chấm dứt khổ đau, sinh tử luân hồi thì phải cắt đứt vòng xích 12 nhân duyên . Nghĩa là, phải diệt trừ vô minh ( hoặc), không gây nghiệp (nghiệp),tạo khổ (khổ). Mà vô minh diệt thì Hành diệt…cho đến lão tử cũng đều bị diệt. Có như thế cuộc của con người, ở đời này và đời sau, mới vơi được nguồn đau khổ, và được an lạc, tự tại, giải thoát.

*.. Chân Lý Thứ Tư (Đạo đế).

Tức trình bày Phương Pháp Diệt Trừ Nguyên Nhân Sự Khổ.

Nhưng muốn diệt trừ nguyên nhân sự khổ phải làm thế nào? Tất phải đi theo con đường (Đạo) chân chính do Đức Phật đã vạch sẵn, gồm có tám nhánh ( Bát chính đạo: Aryàstangamàrganàmani):

1.. Hiểu biết chân chính.

2.. Suy tư chân chính.

3.. Lời nói chân chính.

4.. Việc làm chân chính.

5.. Đời sống chân chính.

6.. Siêng năng chân chính.

7.. Nhớ nghĩ chân chính.

8.. Định tâm chân chính.

Tronh hai đế Khổ (quả), Tập (nhân) thuộc về nhân quả thế gian.

Hai đế Diệt (quả), Đạo (nhân) thuộc về nhân quả xuất thế gian.

Trong mười 12 nhân duyên: Vô minh: Hành là nhân thuộc về quá khứ; Thức, Danh Sắc, Lục nhập, Xúc, thụ thuộc quả hiện tại; Ái, Thủ, Hữu là nhân hiện tại. Còn sinh, Lão tử thuộc về quả vị lai.

".. đã từ lâu, chúng ta quen "sống say chết mộng" hay "sống như một kẻ đã chết rồi". Chúng ta chẳng hề bao giờ quan tâm đến con người thật, hay ông chủ nhà của chính mình, mà chỉ quen sống với vọng tưởng khách trần ảo ảnh, mải mê đuổi bắt những bóng hình vật vờ của ngoại cảnh chập chờn vô định, và cam tâm làm nô lệ cho thất tình lục dục mà thôi! Nếu chúng ta cứ mãi tiếp tục nếp sống như vậy chẳng chịu sửa đổi, thì có khác gì những bộ máy vô hồn, không ý thức được công việc mình làm, khác nào như ngọn cỏ lá cây vô tri vô giác, thực là uổng phí cả một kiếp người! (BTD, trang1220).

" Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi!"

" Hãy im lặng là rất sống, rất sáng!"

" Hãy đem lòng mình đối diện với hồn của lịch sử!"

" Mỗi sầu thảm, mỗi khổ đau đều bắt rễ bén mầm trong cái tối tăm, tham lam, ác độc, thù hận, nghi kỵ, thấp hèn, sợ sệt của con người cả. Con người đang xô đẩy nhau vào cái trọng chướng trọn vẹn để rồi phiêu lưu trong cuộc luân hồi phiền não vô thủy vô chung.

Sao không cứu lấy họ?

Sao không đưa họ đến Thắng địa?

" Không ai cứu nổi họ đâu! Chỉ có họ tự cứu lấy. Không thần thánh nào nổi nhân loại hết. Chỉ có nhân loại tự cứu lấy mình thôi. Con người là hơn cả, con ngườitối thắng ( chữ kinh hoa nghiêm). Con người làm thần thánh lấy chính mình và làm thần thánh lấy vũ trụ. Chỉ có con người mới thực hiện được mọi sự tốt đẹp của vũ trụ mà thôi.

" Con người có toàn quyền tự do định đoạt lấy cuộc sống của mình. Nhưng điều kiện tiên quyết là mỗi con người phải biết gột rửa tâm hồn cho thật trong sạch, nhóm lên ngọn lửa thương yêu, hoan lạc và vui sống, để xóa đi những áng mây mờ thù hận, chia rẽ, chiến tranh, áp bức và bất công trong cuộc đời, không còn phân biệt chủng tộc, màu da, tiếng nói , thành kiến quốc gia hùng cường hay nhược tiểu để…tất cả cùng nhau chung sức kiến tạo một xã hội người văn minh, Giác Ngộ và Giải Thoát".(1)

" Xã hội loài người tốt đẹp hay không tùy theo nghiệp báo của mỗi cá nhân trong xã hội đó tạo thành. Nghiệp chuyển biến không ngừng, nhân làm quả, quả lại làm nhân, các chủng tử thiện, ác được huân tập trong A lại gia thức, để khi gặp đủ cơ duyên thì liền phát khởi hiện hành.

" Tư tưởnghành vi của một người thiện sẽ tạo cho người đó và cho cả môi trường chung quanh y những hoàn cảnh sinh sống tốt đẹp.

" Tư tưởng và hành động của nhiều người thiện cùng trong một xã hội góp lại, sẽ gây cho cộng đồng xã hội đó một cộng nghiệp tốt lành, để tạo nên một nếp sống tươi vui, hạnh phúc.

" Trái lại, tư tưởnghành vi của một người độc ác sẽ tạo cho người ấy và xã hội của y những hoàn cảnh xấu xa bi đát, gieo rắc tai ươngđau khổ cho hàng triệu sinh linh. Và nếu lại có nhiều người hung tàn bạo ngược, cùng trong một xã hội, rải ra những luồng tư tưởng và hàng vi ác độc, sẽ gây tai ương khủng khiếp và tạo nên một cộng nghiệp nặng nề cho toàn thể, triệu triệu người trong xã hội đó cùng phải gánh chịu hậu quả thảm khốc thê lương".( BTD,trang1151- 1152).

Giấc mơ tuyệt mỹ của đồng tử Thiện TàiHy Vọng biến cõi trần gian khổ đau này thành cảnh Tịnh Độ đầy tình thương chân thật, đầy thiện tính cao quý. Muốn cho thế giới được thanh bình, toàn dân được tròn đầy hạnh phúc thì, theo đồng tử Thiện Tài, chỉ còn Con Đường BỒ TÁT ĐẠO thênh thang rộng mở, là nơi gặp gỡ lý tưởng của mọi tôn giáo, mọi màu da sắc tộc, mọi văn hóa bất đồng, nhưng cùng chung một Tâm Đại Bi bao la dạt dào, cùng thiết tha mong càu xây đắp hạnh phúc, hòa bình chung, cùng hướng về nẽo chân, thiện, mỹ và cùng thực hành Bồ Tát Đạo bằng pháp môn Lục độ Ba la mậtTứ vô lượng tâm.

Lý tưởng hành trì Bồ Tát Đạođồng tử Thiện Tài hằng mến yêu ấp ủ trong lòng là một lý tưởng cao xa, thiết tưởng cao xa, thiết tưởng đây cũng là lý tưởng chung của mọi tâm hồn hướng thượng, có thể là của tác giả, của các bạn, của tôi, của tất cả chúng ta, vốn sẵn mang trong mình một trái tim trong, một khối óc sáng, và cốt cách của một "Phật tính" cao cả tuyệt vời.

Đọc tác phẩm "BỒ TÁT ĐẠO hay Con Đường Lý Tưởng" của Minh Đức Thanh Lương, chúng ta nhận thấy ngay cái dụng ý của tác giả muốn đem hết tâm thành gửi gắm trong vai đồng tử Thiện Tài đi cầu Đạo Bồ Tát, để nhân đó có thể trình bày được hết mọi tông phái của Đạo Phật, Tịnh Độ tông, Mật tông, Thiền tông, Duy Thức tông, Bát Nhã tông, Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông v.v …cùng các pháp môn chính yếu, như: Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Bát Chính Đạo, 37 Phẩm Trợ Đạo, Lục Độ, Tứ Vô Lượng Tâm….và nói lên được những giáo lý cao thâm của Phật Giáo đại thừa: Vạn Vật Đồng Nhất Thể, Nhất Thiết Duy Tâm Tạo, Nhân Quả, Nghiệp Báo, Chân Như Duyên Khởi, Pháp Duyên Khởi, Nhất thiết Chúng Sinh Giai Hữu Phật Tính, Vạn Thù Qui Nhất Bản, Nhất Bản Tán Vạn Thù, Lý trung Đạo, Lý Bất Nhị, Sự Lý Viên dung, Sự Sự Vô Ngại, Một Là Tất Cả, Tất Cả Là Một v.v…Khác nào một người có khiếu thẩm mỹ đã góp nhặt những bông hoa tươi thắm muôn màu xâu kết lại thành một tràng hoa tuyệt mỹ, hay một nhạc công điêu luyện đã đem hết tâm hồn say sưa của mình phổ lên những điệu nhạc du dương huyền diệu…

Vì muốn cho các bạn tự tìm lấy để được hưởng cái thú thưởng thức những bông hoa tuyệt mỹ cả về ý lẫn lời trong tác phẩm này, tôi không muốn làm mất nhiều thì giờ quý báo của các bạn bằng cách đi sâu thêm nữa vào chi tiết của bộ sách, vì tôi tự cảm thấy viết đã quá dài, chỉ hân hoan mời bạn hãy đọc và thực thi BỒ TÁt ĐẠO hay cũng đi trên Con Đường Lý Tưởngđồng tử Thiện Tài đã vạch ra, để đáp lại tấm lòng thành của tác giả hằng tha thiết kêu gọi hết thảy chúng ta.

Viết tại chùa Giác Minh, Việt Nam, ngày đầu xuân năm Tân Dậu- Phật lịch 2525 (tháng 3 DL 1981).

Trí Tạng- THÍCH ĐỨC NHUẬN

- Hết -

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8323)
Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu là “biện chứng giải thoát” hay là con đường gỉai thoát. Gỉai thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi.
(Xem: 7591)
Lâu nay mình đã sống trọn vẹn hết thời giờ chưa? Mình có để lãng phí thời giờ hay không? Và bằng cách nào để chúng ta sống một cách có ý nghĩa?
(Xem: 8628)
Hai chữ “Sinh Tử” đã khiến cho biết bao nhiêu người bất kể trí ngu giàu nghèo từ xưa đến nay đều phải lưu ý tới và khổ tâm vì nó.
(Xem: 7167)
Những gì có mang một tính chất riêng (svalakṣaṇa) đều được gọi là pháp (dharma): “svalakṣaṇadhāraṇād dharmaḥ”[1], tức do duy trì yếu tính của tự thân nên nó được gọi là Pháp.
(Xem: 8443)
Đối với Phật giáo mỗi người làm chủ lấy vận mạng của chính mình. Mỗi chúng ta đều mang trong mình một tiềm năng ngang nhau...
(Xem: 7746)
Đạt được cơ sở con người, cơ sở đó giống như một cái bình thật quý và hiếm hoi, giúp ta có thể giải thoát tất cả kẻ khác và cho cả chính ta
(Xem: 7027)
Như Lai hay Như Khứ là dịch nghĩa của từ Sanskrit: Tathāgata, được ghép từ hai yếu tố là tathā và Agata hoặc tathā và gata.
(Xem: 8233)
TA THƯỜNG NGHE NÓI rằng thật khó tìm được một thân người. Không phải là bất kỳ thân người nào mà là một thân người “quý báu” có nối kết với Giáo pháp – đó chính là điều khó đạt được.
(Xem: 9257)
Đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, người ta thường thấy câu thành ngữ “Buông đao đồ tể, lập tức thành Phật”.
(Xem: 7958)
Thuật từ Uẩn 蘊, ngữ nguyên Sanskrit là skandha, Pāli là khandha, Hán phiên âm, Tắc-kiện-đà 塞健陀, dịch là tích tụ, loại biệt, tức là năm loại khác nhau về các pháp hữu vi.
(Xem: 8439)
“Bạn có nghĩ rằng hôm nay chỉ là một ngày nữa của đời mình chăng? Thật ra hôm nay không phải chỉ là ‘một ngày nữa’ thôi, mà nó là một ngày được riêng dâng tặng cho bạn.
(Xem: 8085)
Phật dạy chúng ta hãy đem chánh niệm vào tất cả những việc mình làm trong đời sống hằng ngày. Ngài không bỏ ra ngoài bất cứ một việc làm nhỏ nhặt nào hết...
(Xem: 9646)
Những lời khuyên thiết thực, thâm sâutrong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cải tâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
(Xem: 6802)
Trong cuộc sống, chúng ta thường dùng lời nói để trao đổi thông tin, để diễn đạt ý tưởng hoặc để bày tỏ, biểu lộ tâm tư tình cảm của mình…
(Xem: 6840)
Đức Phậtlòng từ bi mà thương xót chúng sinh, nên đã chỉ ra nỗi khổ, niềm đau, chỉ dạy phương pháp dứt khổ, để chúng ta cùng được sống trong bình yên, hạnh phúc.
(Xem: 7064)
Hộ trì các căn (Indriyesu guttadvàro) hay phòng hộ các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) là một trong các biện pháp tu tập căn bản của đạo Phật.
(Xem: 6694)
Tăng quan luận (僧官論) là một trong những bộ luận do ngài Thích Ngạn Tông (557-610)1 trước tác, nhằm thuyết minh và lý giải các chức vụ do chư Tăng đảm nhiệm (廣明僧職)
(Xem: 7225)
Chưa có tài liệu nào về niên đại của đức Phật lịch sử, vị sáng lập đạo Phật, được truyền thừa nhất quán trong các tông phái chính của Phật giáo cũng như được các học giả cùng công nhận.
(Xem: 6871)
Kinh Hoa Nghiêm, như các kinh điển Đại thừa, lấy tánh Không làm nền tảng. Tánh Không trong kinh này là Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ-lô-giá-na, và toàn thể vũ trụhiện thân của Ngài.
(Xem: 16312)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
(Xem: 7565)
Con đường Bồ tátcon đường lý tưởng nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa – không phải là pháp tu để thành thánh, thành tiên, mà là một lối sống ai cũng có thể ước mong thành tựu được.
(Xem: 6508)
Sau kiến đạo, các pháp hữu lậu không thuộc kiến sở đoạn (darśana-prahātavya). Tức các pháp hữu lậu còn lại, trừ kiến chấp ô nhiễm khởi lên do tà phân biệt.
(Xem: 6972)
Đa số người xưng là Phật tử mà không biết rõ đường lối tu hành, ai bày sao làm vậy, trở thành mê tín sai lầm, khiến người đời phê bình đạo Phật là huyền hoặc, là vô ích.
(Xem: 7294)
Tánh "không" (S. 'Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyết bị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất.
(Xem: 6378)
Tánh Khôngbản tánh của tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi hành động của thân khẩu ý, nên ở đâu trong không gian nào thời gian nào chúng ta cũng có thể nhận ra nó...
(Xem: 6747)
Nói đến Bát-nhã (Trí huệ), các luận thường phân làm ba: Bát-nhã văn tự, Bát-nhã quán chiếu, và Bát-nhã thật tướng.
(Xem: 5599)
Người Phật tử chân chính chớ nên dòm ngó lỗi người, chúng ta chỉ nên nhìn lại hành động của mình, xem đã làm được điều gì tốt đẹp hay chưa.
(Xem: 8936)
"Vậy nên này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác.
(Xem: 7418)
Tổ Quy Sơn dạy: "Nếu mình chưa là bậc thượng lưu, vượt thẳng lên thềm vô thượng giác thì hãy để tâm vào giáo pháp, ôn tầm kinh điển, rút ra nghĩa lý tinh hoa, truyền bá tuyên dương tiếp dẫn hậu lai, trả ơn đức Phật".
(Xem: 22406)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 7803)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 6869)
Bài Pháp này nhắc nhở các bạn về một số điều Phật dạy, như một cách để sách tấn, khuyến khích các bạn chăm chỉ thực hành đúng theo lời Phật dạy.
(Xem: 15068)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 8656)
Sự hình thành và phát triển tâm lý học Phật giáo là một quá trình vừa diễn dịch vừa xây dựng kéo dài suốt hàng thế kỷ trong lịch sử truyền thừa Phật giáo kể từ thời Đức Phật.
(Xem: 13132)
Giáo lý Duyên khởi (Cái này sinh, nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt) là nguyên tắc chung giải thích về sự hình thành hay hủy diệt của các pháp.
(Xem: 19052)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 6025)
Phật Thích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật. Khổng Tử thì nhắn nhủ hậu thế: ông chỉ truyền lời Thánh hiền không thêm bớt không sáng tạo...
(Xem: 6266)
Ở đời cái gì cũng vậy, không phải ngẫu nhiên có được, mà đòi hỏi mỗi con người chúng ta phải tự nỗ lực, tự tầm cầu, tự suy tư để tìm đến con đường giải thoát cho tự thân và tha nhân.
(Xem: 7040)
Chân lý tương đối là những sự thật còn nằm trong đối đãi đối trị nhau. Những sự đối đãi ấy là...
(Xem: 7351)
Sanh tử sự đại là một đề mục lớn của Thiền Tông, và sanh tử luân hồi là một chủ đề phổ thông của Phật Giáo. Nói đến sanh tử luân hồi thì người Phật tử nào cũng nghĩ đến việc thoát ly sanh tử luân hồi.
(Xem: 8403)
Nghiệp báo đóng một vai trò rất quan trọng trong giáo lý nhà Phật.
(Xem: 5701)
Người ta thường tìm đủ mọi cách để gán một nhãn hiệu nào đó lên các lời giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 5889)
Đã lâu, đa số thanh niên quan niệm giải thoát của đạo Phật là siêu hình huyền hoặc đâu đâu, để dành riêng cho những người chán thực tại cầu vào chốn hư vô tịch diệt.
(Xem: 5526)
Sự hiện hữu của mỗi chúng ta hiện giờ và ở đây là do, từ, bởi, nhiều nguyên nhânđiều kiện.
(Xem: 6517)
Đồng Mông Chỉ Quán là một trước tác rất hàm xúc và có hệ thống, nếu hành giả cố gắng thực hành theo "Pháp yếu tọa Thiền tu tập Chỉ Quán" này chắc chắn sẽ đạt được kết quả lớn lao.
(Xem: 5957)
Đạo Phật chủ trương giác ngộ mang ánh sáng trí tuệ soi rọi cho thế gian. Mọi lẽ thật đều hiện bày dưới ánh sáng giác ngộ,
(Xem: 7542)
Mọi chúng sinh dù là người hay là thú , dù giầu hay nghèo, già hay trẻ, không ai là có thể tồn tại lâu dài mãi mãi trong một tình trạng , mọi thứ đều sẽ phải thay đổi và xa rời đi.
(Xem: 5838)
Bốn dấu ấn tiếng Phạn gọi là caturlaksana, tiếng Pa-li là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 6769)
Đại thừa (Mahāyāna) phát triển một nhận thức mới về bản chất lịch sử của Đức Phật Śākyamuni.
(Xem: 6811)
Khi chúng ta tự gọi mình là những Phật tử, có nghĩa là chúng ta là những người đi theo Phật.
(Xem: 5748)
Phật Giáo là một tôn giáo xây dựng trên trí thông minh, khoa học và sự hiểu biết. Mục đích của tôn giáo ấy là để giúp loại trừ khổ đau và các nguyên nhân mang lại khổ đau.
(Xem: 6247)
Chúng ta học Phật, Phật dạy chúng ta hồi đầu, quy y tự tính giác. Tự tính giác tức là Phật tính. Phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh...
(Xem: 5542)
Phật pháp là những điều đức Phật chứng kiến được sau khi giác ngộ, đem chỗ chứng kiến ấy nói lại để cho mọi người hiểu biết để dứt sạch mê lầmgiác ngộ
(Xem: 7179)
Ý niệm về nghiệp hữu lý trên nhiều phương diện, nhưng một số người đã hiểu lầm về nghiệp.
(Xem: 6116)
Khả năng thích ứng tuyệt vời của Phật giáo đã giúp Phật giáo hội nhập với các nền văn hoá khác.
(Xem: 7959)
Bụt là thầy chỉ đạo Bậc tỉnh thức vẹn toàn Tướng tốt đoan trang Trí và bi viên mãn.
(Xem: 6113)
Người có tuệ giác biết nhìn thẳng vào sự thậtchấp nhận sự thật ấy dù đau thương rồi nỗ lực chuyển hóa, thăng hoa.
(Xem: 7148)
Đạo Phậtđạo từ bi và hành động thiết thực của nó mang đến sự an vui, bình yên cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 6982)
Ai có thể hàng phục được mười tám giới: sáu căn, sáu trần, và sáu thức, khiến chúng đừng tạo phản thì người đó chính là Bồ Tát.
(Xem: 7031)
Trong Phật giáo, các từ ngữ "cầu nguyện," "cầu xin" hay "ước nguyện" được hiểu đồng nghĩa với thuật ngữ "pràrthanà" (Sanskrit) hay "patthanà" (Pali).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant