Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vài Nét Về Văn Bản

28 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7347)
Vài Nét Về Văn Bản

Trí Khải Đại Sư 
PHÁP HOA HUYỀN NGHĨA

PHẬT HỌC THIÊN THAI TÔNG

Nguyên tác: The Profound Meaning of the Lotus Sutra by Haiyan Shen - Từ Hoa dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2008

 

Vài nét về văn bản

Mười năm trước, khi tôi bắt đầu để tâm đến Phật giáo thì Phật học Thiên Thai Tông (1) lôi cuốn sự chú ý của tôi một cách khác thường. Đây là tông phái Phật giáo đầu tiên xuất hiện ở Trung Hoa đánh dấu một chuyển tiếp sấm sét từ Phật giáo Ấn Độ đến Trung Quốc vào thế kỷ thứ sáu. Sự thành hình của hệ thống Phật giáo Thiên Thai Tông qua phương pháp Chỉ và Quán đặt căn bản lý thuyếtthực hành cho Phật giáo Trung Hoa. Bởi vì Phật học Thiên Thai Tông mang theo lề lối nhận thức của dân tộc Trung Hoa, tông phái nầy đã vẽ đường cho sự phát triển của những tông phái Phật giáo tiếp nối trên vùng đất Trung quốc. Khuôn mặt nổi bật là người dựng lập nên Thiên Thai Tông, một trong những vị Tổ vĩ đại nhất của Trung Hoa, tức Trí Khải, còn được gọi là ‘bậc hiền triết lỗi lạc nhất của Phật giáo Trung Hoa’ (2). Vì vậy, tôi rất chú tâm vào những tác phẩm còn để lại của Người.

Những tác phẩm quan trọng nhất của Trí Khải Đại Sư được gọi là ‘Thiên Thai Tam Đại Bộ’(T’ien T’ai San ta pu). Bộ sách nầy gồm có : ‘Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú’(Miao Fa Lien hua Ching Wen chu, T34, No.1718), , ‘Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa (Miao fa Lien hua Ching Hsuan-I, T33, No. 1716), và Maha Chỉ Quán (Moho Chih-kuan, T46, No.1911). Mỗi tác phẩm nhấn mạnh vào mỗi chủ đề đặc thù, tác phẩm thứ nhất giảng chi tiết từng lời kinh Pháp Hoa ; tác phẩm thứ hai trình bày hệ thống Phật học siêu việt của Trí Khải qua những đề mụcý nghĩa vi diệu trong bản kinh Pháp Hoa ; và tác phẩm thứ ba là hệ thống thực hành thâm sâu của riêng Trí Khải về Chỉ và Quán đặt căn bản trên những chú giải của Đại Sư về kinh Pháp Hoa. Trong ba tác phẩm nầy, Huyền Nghĩa là một tác phẩm đầy sáng tạo, trong đó, Trí Khải đã đưa vào một hệ thống toàn thể những giáo lý Phật có mặt đương thời qua phương thức chú giải, dựng lập, tái tạo, và đặt vào chỗ đứng đúng đắn nhất tất cả những khái niệm và tư tưởng từ đất Ấn du nhập vào Trung Hoa, đưa theo nền tảng phát triển của Phật giáo Trung quốc

Đường nét quan trọng của bản kinh Pháp Hoa (3) đối với Thiên Thai Tông thì không còn gì nghi ngờ nữa. Chủ đề của bộ kinh nầy chuyển đạt sự hợp nhất của phương tiện Tam Thừa vào một Phật Thừa tối hậu, gắn liền với tinh thần phổ độ chúng sinh. Vì kinh Pháp Hoa thuyết về Không (Sunya) như thực lý, là cái đồng như trí tuệ thâm sâu của kinh Bát Nhã Ba La Mật, và thuyết về Nhất Thừa Bồ Đề giải thoát rốt ráo của tất cả chúng sinh, phù hợp với giáo lý kinh Đại Niết Bàn, gồm thu những tư tưởng quan trọng và tinh túy của Đại Thừa, trở nên một trong những bản kinh Đại Thừa gây ảnh hưởng mạnh khắp vùng Đông Á.

Sự chọn lựa đề tài nghiên cứu

Trong số những tác phẩm của Trí Khải Đại Sư, tác phẩm Huyền Nghĩa đặc biệt lôi cuốn sự chú ý của tôi. Ngoài những điểm đáng kể trong tam đại bộ, có lẻ vì tính chất của Huyền Nghĩa- một đường hướng chú giải kinh Pháp Hoahệ thống, giáo pháp tối hậu của Thế Tôn đã hiện nguyên hình trong một tác phẩm sâu thẳm, gồm thu hầu hết hệ thống tư tưởngtriết học Phật giáo của Trí Khải. Với cách chuyển đạt những đề mục chính trong kinh Pháp Hoa liên quan đến Chân Như của Phật Thừa, Trí Khải có thể trình bày nền minh triết của riêng Đại sư về Phật giáo. tác phẩm Huyền Nghĩa khiến người đọc sững sốt, vì những phương thức Trí Khải mang đến với Phật pháp, và cũng vì lối trình bày đầy năng lực qua những phương tiện cấu trúc đa dạng tự phơi bày từ lớp nầy sang lớp khác. Bố cục đa dạng nầy dựa vào những thể loại khác nhau và vô vàn phối cảnh, hòa tan vào một sự thoát thai không ràng buộc vào quy ước (4), mang theo tư tưởng hài hòa, chân thực, và giá trị của Trí Khải.

Tác phẩm duy nhất nầy, với chiều sâu và sự gắn bó, đã đổ đầy vào công trình vĩ đại trong sự khám phá những huyền khải qua toàn thể hệ thống Phật pháp. Hầu hết những lý thuyết và khái niệm Phật giáo có trong nhiều bản kinh khác nhau được đưa về hòa hợp trong hệ thống chú giải của Trí Khải qua đường lối tuyên thuyết và xác định lại vị trí chân thực, đưa giáo pháp Phật về một toàn khối liên tục, gồm thu tất cả những phân nhánh có mặt vào thời đại của Trí Khải. Giải thích ‘Huyền Nghĩa’ qua ba phối cảnh trong ánh sáng của một minh triết dung hòa (Yuan-jung Che-hsueh) (5), chúng tôi mong ước cung cấp được một định lượng đối với tác phẩm nầy và đối với những gì Trí Khải đã cống hiến trong sự thành lập Phật giáo Trung Hoa. Hiển nhiên, không hiểu đúng tác phẩm nầy thì không thể nào nắm bắt được cái thâm diệu của Phật giáo Trung Quốc.

(1) Phối cảnh thứ nhất liên quan đến phương pháp chú giải và trình bày của Trí Khải. Đây là chỗ suy gẫm về văn mạch và bố cục của tác phẩm Huyền Nghĩa để thấy được làm cách nào Trí Khải đã dàn trải học thuyết của Đại Sư qua phương pháp chú giải bản kinh Pháp Hoa.

(2) Phối cảnh thứ hai liên quan đến mục tiêu phổ độ của Trí Khải xuyên qua phương pháp hành trì. Đây là chỗ thấy được kỷ thuật Trí Khải sử dụng để giữ vững hệ thống tư tưởng của Đại Sư.

(3) Phối cảnh thứ ba liên quan đến chiều hướng suy tư của Trí Khải, là cái phản ảnh đường hướng tư tưởng của dân tộc Trung Hoa trong bầu vũ trụ hài hòa. Đây là chỗ thấy được lề lối hận thức đối với cái những học thuyết của Trí Khải thực sự là, và tại sao Đại Sư có được một nền minh triết dung hòa trọn vẹn đến như vậy.

Với sự hiểu biết của chúng tôi, ba con đường tiến đến tư tưởng của Trí Khải như trên ít được thấy.

Đề tài nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu ở đây là đến được với cái hiểu thâm sâu về sự thành tựu của Trí Khải qua lối đi vào Huyền Nghĩa, tương trưng cho học thuyết của Đại sư, và bắt nhịp cho ba phối cảnh nói trên. Tiếp theo là sự thành tựu của Trí Khải qua Huyền Nghĩa, như một tác phẩm đã phản ảnh triết học của Đại Sư. Tập trung vào toàn thể tác phẩm như phương tiện khảo cứu triết lý của Trí Khải, chúng tôi có thể đưa ra một phát họa cụ thể, cho thấy tư tưởng của Trí Khải đi vào con đường thực hành như thế nào. Đường hướng giải thích một tác phẩm đơn độc của Trí Khải tuôn trải dòng tư tưởng của Đại Sư thì không giống với những cách thức chú giải cổ truyền. Triết học của Trí Khải được tôn trọng bởi các học giả Thiên Thai Tông trong các thảo luận về tư tưởng, khái niệm, hệ thống v.v... của Đại Sư. Vì vậy, cách tức tương đối mới mẻ nầy đi vào tư tưởng của Trí Khải như một chứng cớ hiển nhiên về con đường mang triết lý vào thực hành của Trí Khải, cũng là cố gắng của chúng tôi trong việc đào sâu tư tưởng của Đại Sư. Chúng tôi kỳ vọng rằng sự nghiên cứu nầy có thể giúp chúng tôi tiếp nhận được chiều sâu của một nền minh triết tuyệt đối dung hòa, cũng như dối vớI sự cống hiến của Trí Khải vào công trình tạo dựng Phật giáo Trung Hoa.

Bố cục tác phẩm nghiên cứu

Chủ đề Chương Một, Quyển Một

Để nhìn ra được Trí Khải như một nhân vật khác thường trong thời điểm của Đại Sư, Chương Một nói về cuộc đờithời đại của Trí Khải như một giới thiệu căn bản, và cũng như một giới thiệu về tác phẩm. Suốt cả cuộc đời Trí Khải là một sự huyền bí. Sự thành tựu của Trí Khải là kết quả của truyền thống gia tộc, giáo dục, tài năng, kinh nghiệm, và sự dâng hiến đời mình cho hạnh nguyện tôn giáo, như nhu cầu của thời thế.

Chủ đề Chương Hai, Quyển Một 

Dựa vào sự diễn tả của Huyền Nghĩa (là chủ đề của Quyển Hai), Chương Hai nói về những thành tựu của Trí Khải qua Huyền Nghĩa. Chúng tôi hoạch định ba câu hỏi (qua ba phối cảnh đã đề cập ở trên) đưa ra một sự phân tích về tác phẩm.

Câu hỏi thứ nhất trong Chương Hai

Câu hỏi thứ nhất, Trí Khải đã bố cục tác phẩm Huyền Nghĩa như thế nào để chú giải kinh Pháp Hoa, nhắm mục đích trình bày hệ thống tư tưởng của riêng mình, nhìn toàn diện tác phẩm qua bố cục và nội dung. Phần nầy vẽ ra một dàn bài và cấu trúc tổng quát của tác phẩm. Qua câu hỏi nầy, đưa ra sự diễn tả sơ lược về phương thức chú giải kinh điển được Trí Khải sử dụng giải nghĩa kinh Pháp Hoa và trình bày tư tưởng của Đại Sư.

Câu hỏi thứ hai trong Chương Hai

Câu hỏi thứ hai, Trí Khải đã nối kết một cách liên tục và đầy đủ tư tưởng viên dung của mình như thế nào, Đại Sư đã sử dụng kỷ thuật nào khiến những tư tưởng nầy không sa vào lỗi lầm, và không thể bị đánh đổ, qua sáu kỷ thuật : 1. Kỷ thuật quy nguyên, 2. Kỷ thuật định nghĩa, 3. Kỷ thuật phê bình và định giá trị tường tận những lý thuyết khác, 4. Kỷ thuật so sánh, 5. Kỷ thuật diễn tả những ý niệm và khái niệm tường tận và thâm sâu, 6. Kỷ thuật chú giải qua biểu tượng. Qua những kỷ thuật nầy, điều Trí Khải muốn gởi gắm trong ánh sáng triết lý của mình (ám chỉ một sự phổ độ) đã hiển nhiên.

Câu hỏi thứ ba trong Chương Hai

Câu hỏi sau cùng, là cái mà những lý thuyếthệ thống Trí Khải kết cấu để trình bày những đặc tính dung hợp những tín giải khác biệt, như rường cột triết học của Đại Sư, liên quan đến đường lối nhận thức, tức sự điều hòa những tín giải phản ảnh nhận thức luận của người Trung Hoa. Những lý thuyếthệ thống hiển lộ đặc tính nầy đợc tóm lược như sau :1. Hệ thống phân loại, 2. Hợp nhất, 3. Hệ thống nhổ bỏ cái cũ và đưa đến cái mới. qua câu hỏi nầy, không những đề tài thứ ba về vấn đề nhận thức liên quan đến sự thành lập tư tưởng triết học của Trí Khải, là cái biểu trưng cho ý nghĩa thực hành, được khảo sát, mà sự tương quan với phối cảnh thứ nhất qua phương thức chú giải thánh điển, có dụng ý giáo dục, và phối cảnh thứ hai, mang theo ý nghĩa phổ độ cũng được vén màn.

Chủ đề Quyển Hai

Về tác phẩm Huyền Nghĩa, hiện nay chưa có một bản dịch Anh ngữ nào ra đời, ngoại trừ một phần nhỏ nói về ‘Diệu Cảnh’(6). Vì chiều dài của tác phẩm (133 trang qua Taisho edition), chúng tôi chọn lối trình bày và diễn tả tổng quát về tác phẩm thay cho một chú dịch toàn tác phẩm. Qua lối mô tả trong tập sách nầy, chúng tôi cố gắng trình bày toàn bộ tác phẩm.

Quyển Một của tập sách nầy đưa ra mục đích nói trên. Chúng tôi chia làm hai phần chính phù hợp với bố cục của tác phẩm. Phần Ngũ Huyền (Danh, Thể, Tông, Dụng, và Giáo) mà Trí Khải đã sáng tạo như phương tiện chú giải kinh Phật, là những đề mục chú giải kinh Pháp Hoa trong cả hai phần. Phần thứ nhất trình bày những đặc tính tổng quát của Ngũ Huyền trong cách chú giải kinh Pháp Hoa ; phần thứ hai tập trung vào những ý nghĩa đặc thù của Ngũ Huyền trong khi chú giải bản kinh nầy. Vì nội dung đa dạng của phần hai, chúng tôi đã chia phần nầy ra làm năm chương thuận theo Ngũ Huyền. Chương thứ nhất giải thích từng chữ trong đề kinh. chương thứ hai hiển lộ Thể kinh. Chương thứ ba minh định Tông chỉ kinh. Chương tứ tư luận Dụng của kinh. Chương thứ năm nói về đặc tính của giáo lý Pháp Hoa.

Kết luận

Phần tham khảo chính của tập sách nầy là tác phẩm Huyền Nghĩa. Chúng tôi thú nhận rằng tác phẩm Huyền Nghĩa của Trí Khải Đại Sư quá ư phức tạpthâm sâu mà cái học của chúng tôi chưa thể với đến được chỗ cùng tận. Tuy nhiên, chúng tôi hy vọng rằng, sự hiểu biết của chúng tôi về tác phẩm nầy, và về những phương pháp, kỷ thuật Trí Khải sử dụng, sẽ đưa đường cho những khảo cứu sâu hơn từ những người khác.

Tham khảo

1. Trong tập sách nầy, sự phiên âm Hoa Ngữ được ghi theo hệ thống Wale-Giles, một cách tổng quát, ngoại trừ tên vùng đất, thành phố Trung Hoa, và tên các học giả là những vị vẫn còn sống tại Trung Quốc. Sự phiên âm những tên nầy được ghi theo hệ thống Pinyin.
2. So sánh cùng chỗ, David Chappell, Foreword, Foundations of T’ien T’ai Philosophy, của Paul Swanson, pp.vii.
3. Tóm lược về nội dung kinh Pháp Hoa, đọc Hurvitz, Chih-I, pp. 183-188 ; Kenneth Chen, Buddhism in China, pp. 378-382. Phần phân tích về bản kinh Pháp Hoa, đọc Ren Jiyu, Chung-kuo Fo-chiao Shih, Vol.2, pp.414-445. Phần chính về bản kinh dưới dạng Anh ngữ, đọc Paul Williams, Mahayana Buddhism : The Doctrinal Foundations, Chapter 7.
4. Phần giải thích về cách chú giải tự do của Trí Khải, đọc thí dụ của chúng tôi Chương Hai, Quyển Một.
5. Danh từ ‘Yuan-ju Che-hsueh’ (Triết học viên dung hài hòa), được dùng thông thường ở Trung Hoa để nói về triết học của Trí Khải Đại Sư.
6. Phần nầy được Paul Swanson dịch. Đọc Swanson, Foundations of T’ien T’ai Philosophy, pp.157-256 về bản dịch, và pp. 282-356 về phần ghi chú bản dịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10357)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12247)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15399)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16680)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12302)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11573)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14349)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24709)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10743)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12548)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10460)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12409)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11709)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12101)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13072)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11504)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17520)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21534)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10729)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19344)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12480)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26161)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14457)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13782)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16923)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17690)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13227)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12591)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11680)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11691)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20585)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19128)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19666)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18783)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15138)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15111)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14042)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15580)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14609)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15921)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12950)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18523)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15839)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11131)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53776)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13047)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16660)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15507)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 20031)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15623)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15456)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15246)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10470)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20456)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15599)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13119)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20330)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13346)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29089)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11771)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant