Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

13 Phá Thời Gian – Phẩm 19

03 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 7581)
13 Phá Thời Gian – Phẩm 19

TRUNG QUÁN LUẬN 13 PHẨM
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch
Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh 2007

Phá THỜI GIAN

Giải thích đề tựa

Luận Đại Trí Độ ghi : “Có người nói, thời giannguyên nhân không thay đổi, là thực hữu, là vi tế không thể thấy, không thể biết, chỉ do kết quả của hoa trái mà biết có thời gian. Thành tuy thời gian không thể thấy mà biết chắc có thời gian, vì nhìn quả biết nhân ... Thời gian không biến hoại, nên thường”. Cái thấy này tương đương với cái thấy của Newton trước đây “Ông xem không gianthời gian là hai yếu tố tuyệt đối, vật chất thì vận động trong không gianthời gian. Vật chất đối với ông là vật chất có khối lượng. Ta thử một thí dụ, đối với Newton, thời giankhông gian như một sân khấu, còn vật chất vận động là những diễn viên trên sân khấu đó. Diễn viên không có, thì sân khấu vẫn tồn tại”. [28] 

Do người đời CHẤP thời gian là thường, là không biến hoại v.v… nên Luận chủ luận để phá đi cái chấp này. Nếu thấy thời gian chỉ là pháp duyên khởi không tánh, thì không cần phá. Song nếu thấy duyên khởi mà vẫn cho thời gian là thực (tức có tánh) thì vẫn phá. Phá để hiển bày thực tánh của thời gian

LUẬN GIẢI TOÀN PHẨM

若因過去時 Nếu nhơn thời quá khứ
有 未來現在 Có vị lai hiện tại
未 來及現在 Vị laihiện tại 
應 在過去時 Nên ở thời quá khứ (1) 
若 過去時中 Nếu trong thời quá khứ
無 未來現在 Không vị lai hiện tại
未 來現在時 Thời vị lai hiện tại
云 何因過去 Làm sao nhơn quá khứ (2)
不 因過去時 Không nhơn thời quá khứ
則 無未來時 Ắt không có vị lai
亦 無現在時 Cũng không thời hiện tại
是 故無二時 Cho nên không hai thời (3)

Đây là lý luận để phá thời gian

Thời gian được biểu trưng bằng 3 thời là quá khứ hiện tạivị lai. So sánh với cái đã qua, mà nói là HIỆN TẠIVỊ LAI. Tức QUÁ KHỨ là nhân của HIỆN TẠIVỊ LAI. Là nhân thì HIỆN TẠIVỊ LAI không lìa QUÁ KHỨ. Không lìa thì HIỆN TẠIVỊ LAI đều ở thời QUÁ KHỨ. Nên nói “Vị lai và hiện tại, nên ở thời quá khứ”. 

Nhưng nếu VỊ LAIHIỆN TẠI cũng ở QUÁ KHỨ, thì chúng là QUÁ KHỨ, không còn là VỊ LAIHIỆN TẠI. Vì vậy QUÁ KHỨ không thể là nhân của VỊ LAIHIỆN TẠI. Không nhân thì không quả. Tức HIỆN TẠIVỊ LAI cũng không. Đây là ý nghĩa của (P.2) và (P.3).

Không VỊ LAI, HIỆN TẠI thì QUÁ KHỨ cũng không. Ba thời không thì thời gian cũng không. 

以如是義故 Bởi do nghĩa như vậy
則 知餘二時 Thì biết hai thời khác
上 中下一異 Thượng trung hạ nhất dị
是 等法皆無 Các pháp ấy đều không (4)

BỞI DO NGHĨA NHƯ VẬY, là nói về kết quả đã luận ở phần trên. Từ kết quả đó mà biết, nên nói THÌ BIẾT.
HAI THỜI KHÁC là chỉ cho hiện tạivị lai. Trên lấy quá khứ làm nhân để biện. Tương tự vậy mà biện với cái nhân là hiện tại, vị lai, và tất cả các pháp tương đãi khác. Trong đó có pháp THƯỢNG - TRUNG - HẠ, là chỉ cho trên - giữa - dưới, NHẤT - DỊ là chỉ cho một và khác. 

CÁC PHÁP ẤY ĐỀU KHÔNG là nói về tánh của các pháp đó. Pháp duyên khởi thì tánh chúng là không. Tức tướng thì có, nhưng chỉ như trăng dưới nước, bóng trong gương, không có chất thực. 

時住不可得 Thời gian trụ không thể
時 去亦叵得 Thời gian đi không thể 
時 若不可得 Thời, nếu bất khả đắc
云 何說時相 Làm sao nói tướng thời? (5) 

Đây là nêu bày thực tướng của thời gian : KHÔNG TRỤ CŨNG KHÔNG CHUYỂN. Đó là ý của hai câu đầu. Không trụ không chuyển, tức thời gian không phải là thứ có thể nắm bắt. BẤT KHẢ ĐẮC là không thể nắm bắt. Không thể nắm bắt thì thời gian không có tướng để nói. Đó là ý của hai câu sau.

THỜI GIAN TRUï, là cho thời gian đứng yên một chỗ. Với cái nhìn của mình hiện nay, thời gian không đứng yên. Vì nếu nó đứng yên thì không có quá khứ, hiện tạivị lai, tức không có thời gian.

THỜI GIAN ĐI là cho thời gian trôi chuyển. Đây là cái thấy của tất cả chúng ta trong thế giới vĩ mô này, cũng chính là loại thời gian tâm lý mà giáo sư Trịnh Xuân Thuận nói trong Giai Điệu Bí Ẩn “Chúng ta hình dung thời gian như nước trong một dòng sông chảy, như những gợn sóng trên mặt sông đi qua. Trên con tàu thả neo đứng bất động trong hiện tại, chúng ta nhìn dòng sông thời gian trôi qua, những con sóng quá khứ lùi xa và những con sóng tương lai xô tới. Chúng ta thừa nhận cho thời gian một chiều không gian và chính sự biểu diễn như thế sự chuyển động của thời gian đối với chúng ta trong không gian, cho chúng ta cảm giác về quá khứ, hiện tại và tương lai ... Cái thời gian chủ quan hay thời gian tâm lý ấy, tất cả chúng ta phải gánh chịu. Sự phân biệt như thế giữa ba thời chi phối cuộc sống của chúng ta …”. Nếu lấy cái tướng trôi đi đó, cho là thực tướng của thời gian, thì Bồ-tát Long Thọ nói THỜI GIAN ĐI KHÔNG THỂ. Các nhà vật lý hiện đại cũng có cái nhìn tương tự. “Quan niệm như thế về thời gian, không phù hợp lắm với các nhà vật lý hiện đại. Vì nếu thời gian có chuyển động thì vận tốc của nó là bao nhiêu? Một câu hỏi quá ư vô lý. Mặt khác, quan điểm cho rằng chỉ có hiện tạitồn tại, chỉ có nó là thực tại, lại không tương thích với sự phá bỏ thời gian cứng nhắc và tuyệt đối bởi thuyết tương đối … Sự phân biệt giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, từ nay không còn hữu dụng. Tất cả mọi thời điểm đều có giá trị như nhau ... Vì các khái niệm của quá khứ, hiện tại và tương lai bị loại bỏ, nên thời gian không cần chuyển động nữa. Nó không trôi nữa …”. [29] Thời gian không trôi nữa, nhưng không có nghĩa là nó đứng yên. Nếu có đứng yên, chỉ là tướng tùy duyên của thời gian, không phải là thực tướng của thời gian. Vì sao? Vì Long Thọ nói THỜI GIAN TRỤ KHÔNG THỂ. 

Vậy thực tướng của thời gian là gì? Tướng thực của thời gian thì không tướng để nắm bắt. Nói theo Trung Luận, thời gian KHÔNG DỪNG TRỤ CŨNG KHÔNG TRÔI ĐI. Trôi đi hay dừng trụ chỉ là tướng theo duyên. Nó không mang tính tuyệt đối phổ quát. Các nhà vật lý hiện đại cũng nói “Thời gian duy nhất và phổ quát trong vũ trụ Newton bây giờ đã được thay thế bằng nhiều thời gian riêng, hoàn toàn khác nhau trong vũ trụ Einstein ... Một giây đối với người ngoài trái đất, có thể sẽ là vĩnh viễn đối với chúng ta. Một giây cũng có thể thành một giờ, một năm, một thế kỷ … tùy thuộc vào vận tốc bỏ chạy của các thiên hà. Nghĩa là, thời gian đã mất đi tính phổ quát của nó. Cũng như không gian, thời gian trở nên đàn hồi. Nó dài ra hay ngắn lại tùy theo chuyển động của người đo nó”. [30]

Sau là kết luận vì sao nói thời gian không đi cũng không dừng. 

因物故有時 Nhơn vật nên có thời
離 物何有時 Lìa vật sao có thời
物 尚無所有 Vật còn không thể có
何 況當有時 Hà huống là có thời (6)

Chúng ta nhận ra thời gian không phải vì nó có một tướng xác định của riêng nó mà NHỜ vào vật. Như thấy cây sanh trưởng từ nhỏ đến lớn mà ta nói có thời gian. Hoặc thấy quá trình hình thành và hoại diệt của một vật mà ta nói có thời gian. Như đất là thời quá khứ của bình. Bình là thời hiện tại. Bình hoại là thời vị lai của bình. Không thể nhận biếtthời gian ngoài cái bình. Tức không có thời gian độc lập ngoài không gian. Thời gian không phải là một thứ sẵn thường, để những thứ khác nương đó mà hình thành hay hoại diệt

VẬT CÒN KHÔNG THỂ CÓ, là nói vật không có tự tánh. Vì vạn pháp chỉ là duyên hợp. Duyên hợp thì không tánh (Đã phá ở phẩm Phá Nhân Duyên). Vì vạn pháp chỉ do THỨC biến, nên không có tự tánh.

Vật không, thì thời gian cũng không.

Chú Thích:

1 Nhân Duyên được triển khai thành Nhân Quả.

2 Điều này được xem là tính chất chính của Nhân Duyên, dùng lập luận phá tự tánh

3 Vô sanh, không, như như, pháp tánh v.v... đều dùng để chỉ cho thực tánh của vạn pháp. Danh khác mà thể đồng.

4 Phần thức nói trong kinh Đại thừa, không phải Tiểu thừa.

5 Kinh Thủ Lăng Nghiêm.

6 Trích trong T.Đ Phật Học Hán Việt. Có chỗ cho ÁI LUẬNngôn luận của tâm chấp thủ đắm trước các pháp. Nếu ái luận cũng là một loại ngôn luận, thì niết bàn của Nhị thừa thuộc Bát Bất. Song niết bàn đó chỉ có không sanh mà không có không diệt. Trong khi Trung Luận Sớ ghi ÁI LUẬN là chỉ cho tâm thủ trước các pháp. Nhị thừa có tâm thủ trước niết bàn. Phá hí luận là phá cái tâm nêu ra sự hiểu biết đối với các pháp, cũng phá luôn tâm thủ trước niết bàn của Nhị thừa. Nên đây lấy theo định nghĩa của Trung Luận Sớ. 

7 Triết Học Marx Lenin – Nhà Xuất Bản Giáo Dục.

8 Triết Học Marx Lenin – Nhà Xuất Bản Giáo Dục. 

9 Đây là phần ngài Hàm Thị giải thích câu đức Phật nói “Thấy ngoại tánh phi tánh”. “Thấy ngoại tánh phi tánh” là thấy tánh của các pháp bên ngoài là không tánh.

10 Bởi tánh vốn không tánh, nên không thể tự giữ mà có bất giác.

11 Cũng là duyên hợp giữa căn - trần - thức nhưng THƯÙC bây giờ đã có phần TÌNH trong đó. Sát na đầu ấy qua quá nhanh, nên người đời chỉ sống được với phần thức tình chứ không sống được với phần thức hiện lượng. Hiện lượng là khái niệm diễn tả cho tình trạng “Vật thế nào ta nhìn chúng đúng như thế ấy”, không bị ràng buộc bởi quan niệm tình cảm của riêng mình để vật trở thành xấu hay tốt. 
 
12 Hành ấm, thức ấm là những khái niệm không thể thay thế bằng những khái niệm bình thường cho dễ hiểu. Nên đành phải ghi nguyên những khái niệm này ra mà không giải thích. 
 
13 Sự khác nhau này bắt nguồn từ sự huân tập tu hành trước đây của các thiền giả. Như cảnh giới tu chứng của Thanh văn khác cảnh giới của Bích Chi Phật, khác cảnh giới của ngoại đạo. Được phân biện rõ trong phần “Ngũ ấm ma” của kinh Lăng Nghiêm

14 Đây là cái chấp SANH VÔ SANH thuộc phần thức ấm trong kinh Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ của ngài Hàm Thị. Các bạn có thể nghiên cứu bản dịch của TT Thích Phước Hảo.

15 Chấp QUI VÔ QUI thuộc Thức Ấm

16 Chấp TRI VÔ TRI thuộc Thức Ấm. Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ của Hàm Thị. Có thể nghiên cứu bản dịch của TT Thích Phước Hảo.

17 Tức chúng không ở trong trường hợp “không một cũng không khác” mà hoặc là rơi vào MỘT hoặc là rơi vào KHÁC.

18 Còn SANH là năng sanh.

19 Nói đến tánh thì phải là tánh không. Duyên khởi chỉ là mặt hiện tượng biểu hiện cho cái không tánh ấy, chứ Duyên khởi không phải là bản thể của vạn pháp

20 Nên hiểu, nhân nói đây bao gồm luôn cả việc đủ duyên.

21 Không phải là câu thứ tư của tứ cú.

22 Đây là nói đến thân dư báo của Phật, là hóa thân Phật (mặt thị hiện của Phật pháp thân). Đứng trên mặt pháp thân mà nói thì Phật không có quả báo hay không có không quả báo. Nhưng trên mặt hóa thân, một khi đã có nhân (nếu thuộc định nghiệp) thì nhất định sẽ có quả. 
 
23 Thiền sư Hàm Thị – Lăng Già Tâm Ấn. H.T Thanh Từ dịch. 

24 Tướng ban đầu : Tức là tướng sơ trong luận Đại Thừa Khởi Tín. Luận ghi “Lại tâm khởi không có tướng sơ có thể biết mà nói biết tướng sơ, chính là vô niệm”.
25 HUÂN là xông ướp, TẬP là lặp đi lặp lại. HUÂN TẬP là chỉ cho thói quen của mình. Có thói quen về suy nghĩ, có thói quen về hành động. Thứ gì làm hoài thành thói quen, sẽ thành những dấu ấn không mất trong mỗi người. Đó là quá trình huân tập. Kinh luận gọi những dấu ấn ấy là chủng tử. Nghĩ ác làm ác hoài thì sẽ có chủng tử ác trong thức tạng. (Thức tạng chính là tâm chân thật của mình. Nhưng do đã có vọng động, không còn được thanh tịnh như dạng nguyên thể ban đầu nên gọi là thức tạng). Nghĩ thiện, làm thiện hoài thì có những chủng tử thiện trong thức tạng. Chủng tử ác đủ duyên sẽ biến hiện thành những cảnh giới khổ đau. Chủng tử thiện đủ duyên sẽ biến thành những cảnh giới sung sướng. Cho nên, niết bàn hay địa ngục không lìa tâm mà có. Đối với người có sẵn chủng tử địa ngục trong thức tạng, khi đủ duyên địa ngục là có. Với người không có chủng địa ngục thì địa ngụchoàn toàn không. Thành ra, thể tánh KHÔNG thanh tịnh chân thật thì ai cũng có, nó là nền tảng để mọi cảnh giới hiện hữu. Nhưng cảnh giới mà mỗi người đang thọ nhận thì tùy thuộc vào chủng thiện ác mà mình đã huân tập trong quá khứ. Đây là lý do vì sao không thể khẳng định địa ngục là có hay là không.

26 Tánh là chỉ cho sự không đổi. 

27 Tánh khôngchân không diệu hữu không khác nhưng không một. KHÔNG KHÁC vì tánh không chính là chân không diệu hữu. KHÔNG MỘT vì tánh không là mới nói đến mặt THỂ của vạn pháp, chân không diệu hữu là muốn nói cái THỂ ấy giờ đã hiển đủ TƯỚNG và DỤNG. Như vậy không khác là nói ở mặt LÝ. Không một là nói luôn ở mặt SỰ.

28 Trích “Khi vật lý gõ cửa bản thể học” của T.S Ng. Tường Bách

29 Giai Điệu Bí Ẩn –Trịnh Xuân Thuận.

30 Giai Điệu Bí Ẩn - Trịnh Xuân Thuận. 

 

 

TRUNG QUÁN LUẬN 13 PHẨM
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch
Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh 2007

Chịu trách nhiệm xuất bản
TRẦN ĐÌNH VIỆT
Biên tập : Châu Anh Kỳ
Sửa bản in : Hồng Nguyên
Trình bày : Chân Hiền Tâm 
Bìa : 

NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP TP. HỒ CHÍ MINH
62 Nguyễn Thị Minh Khai Q.1 
ĐT : 8225340 – 8296713 - 8296764 – 8223637- 8222726 - 8220405 – 8221917 - 8250616 - 8277326 
Fax : 84.8.8222726 - Email : nxbtphcm@bdvn.vnd.net 
Thực hiện : Chân Hiền Tâm 8443138
Email : chanhientam@yahoo.com.vn
In 1000 cuốn. Khổ 14.5x20.5cm tại Cty TNHH In Khuyến Học Phía Nam 
Q.3 TP. HCM. GPXB số : 807-07/52-54 ngày 3/10/2007. 
In xong nộp lưu chiểu tháng 12 năm 2007. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6820)
Hai chữ quy y có nghĩa là : quay về hay hồi chuyển. Y là nương tựa hoặc dựa vào, những hành vi hồi chuyển nương tựa hoặc quay đầu dựa dẩm tin tưởng.
(Xem: 6235)
Niềm tin sâu xa nhất trong giáo lý nhà Phật là tất cả mọi người đều có thể tự cải biến mình trong từng giây phút một. Chẳng có gì gọi là định mệnh cả.
(Xem: 6580)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn.
(Xem: 7821)
Nhẫn nhục là chịu nhịn những điều sỉ nhục xấu hổ, nhục nhã, chịu đựng tổn thương trước những cảnh, sự việc không vừa lòng, nghịch ý, trái tai gai mắt;
(Xem: 6327)
Nền giáo dục hòa bình của Đạo Phật là một con đường đạo đức nhân bảnthiết thực, là căn cứ trên chân lý từ bi, công bằng và...
(Xem: 6650)
Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy mọi sự vật, hiện tượng trong phạm vi giới hạn của đôi mắt mình, nhưng...
(Xem: 5772)
Tôi đến với Phật pháp vì … quá khổ.
(Xem: 5677)
Phải luôn luôn có tâm tùy hỷ đến tất cả mọi người, nếu chưa được giải thoát thì sau khi chết, năng lực tùy hỷ sẽ đẩy mình đến những cảnh giới tốt.
(Xem: 5723)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 6848)
Chúng ta biết tu là chúng ta biết sống. Một thứ tài sản không bao giờ bị mất. Ai muốn giàu, muốn sung túc thì hãy ráng nhớ giữ gìn tài sản này.
(Xem: 6123)
Thuyết bốn Đế, tức bốn Chân lýcăn bản, là cốt lõi tinh túy của đạo Phật, là nội dung bài thuyết pháp đầu tiên của Phật ở Vườn Nai (Bénarès).
(Xem: 7135)
Đạo Phật thường quán niệmsuy tưởng về khổ đau vì đó là kinh nghiệm chung của toàn thể nhân loại.
(Xem: 6259)
Chúng ta chẳng cần tìm Phật ở đâu xa, ngài luôn luôn ở ngay trong cuộc đời, nhưng chúng ta không thấy, vì ...
(Xem: 6205)
Chúng ta có thể tìm ra chánh pháp của Phật, nghĩa là chân lý, ở khắp mọi nơi, chứ không bắt buộc chỉ tìm trong kinh điển.
(Xem: 6650)
Chúng ta đã tìm Phật và tìm Pháp, nay phải đi tìm Tăng cho đủ Tam Bảo, nói cho đủ là Tăng già, phiên âm chữ Phạn Sangha.
(Xem: 5931)
Dù là xuất gia hay tại gia, thường niệm pháp Quy Y trong đời sống, lấy Tam Bảo làm mục đích làm lợi ích cho Dân Tộc và cho cả chúng sinh.
(Xem: 6098)
Kinh sách và Đạo Pháp của Phật không phải giúp để góp nhặt sự hiểu biết mà phải dùng để tự biến cải lấy chính ta.
(Xem: 6484)
Tâm chúng sinh và Phật vốn không khác. Tất cả đều do tâm tạo. Mười cõi cũng do tâm tạo.
(Xem: 5752)
" Nầy các Tỳ kheo Như Lai nói tác ý tức là nghiệp vì có ý muốn làm mới có hành động thân khẩu ý ". Như vậy mười nghiệp lành là 10 điều giúp cho con người thực hiện trong sạch hoá thân khẩu và ý .
(Xem: 6874)
Khái niệm về sự tái sinh không phải là một khái niệm đặc thù của Phật Giáo mà đấy chỉ là một học thuyết chủ trương sự « đầu thai »
(Xem: 6037)
Có những niềm tin gây mê lầm, tội lỗi, gieo tai họa cho chính những người mang niềm tin đó mà họ không hay không biết, hoặc gieo tai họa lên nhiều người...
(Xem: 5929)
Theo kinh Lăng-già, Bồ-tát vì muốn độ tất cả chúng sanh đạt đến Niết-bàn nên phát nguyện ở lại thế giới nhiều khổ đau này để làm lợi ích cho chúng sanh.
(Xem: 6621)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5525)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5606)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 8133)
Mười nghiệp lành không những ngăn giữ chúng sanh khỏi bị đọa lạc vào bốn con đường đau khổ, mà còn mở cánh cửa thênh thang hạnh phúc an vui của phước báu nhân thiên sang cả.
(Xem: 6179)
Theo tâm lýkinh nghiệm, việc chọn lựa một tông phái để theo, phần lớn tùy thuộc vào sở thích và môi trường sinh sống của từng người.
(Xem: 5749)
Tất cả các hệ thống giáo lý phong phú của đạo Phật chỉ có một mục đích duy nhất là trình bày phương pháp và đường lối giải thoát,
(Xem: 8906)
Một người đã tin ở luật nhân quả trong đời hiện tại thì cũng phải tin ở luật nhân quả các đời quá khứ, và vị lai.
(Xem: 6559)
Thực tế cho chúng ta thấy, người học đạo thì nhiều, nhưng để sửa tâm tánh thì không bao nhiêu, đó là kết quả do việc không chịu lắng nghe.
(Xem: 5924)
"Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyền thuộc, là nơi nương tựa" .
(Xem: 5822)
Ngày nay phong trào nghiên cứu Phật học không còn bị thu hẹp trong giới Phật giáo mà đã phổ biến vào mọi tầng lớp của xã hội, không phần biệt Tôn giáo.
(Xem: 5317)
Học Phật là học con đường trở về với chân tâm, với Phật tánh—vốn hàm tàng nơi chính mình và tất cả chúng sinh.
(Xem: 6752)
Phật giáo nguyên thủy, xuất phát từ miền nam Ấn Độ, rồi được truyền sang Tích Lan, từ Tích Lan truyền qua Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào...
(Xem: 6977)
Sám hối không có nghĩa là hết tội nhưng nó có mãnh lực làm cho tâm mình thanh thản, nhẹ nhàng vì vậy nó giúp ngăn hay chận bớt những ác nghiệp mà mình đã tạo ra.
(Xem: 11099)
Tứ đếgiáo nghĩa cơ bản dùng để giải thích mọi hiện tượng nhân sinh vũ trụ được quy nạp từ thập nhị nhân duyên, là con đường trung đạo duy nhất giải thoát sinh tử luân hồi.
(Xem: 8076)
“Những Điều Phật Đã Dạy” là một trong những quyển sách nói về Phật học bán chạy nhất ở các nước phương Tây, được dịch ra nhiều thứ tiếng...
(Xem: 6094)
Tham sống sợ chết, đó là sự thật của người đời. Thế nhưng tại sao lại giết hại, cắt đứt sự sống của chúng sanh khác?
(Xem: 5441)
Theo nguyên tắc chung, tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗi người.
(Xem: 7102)
Quan niệm về cái gọi là "đời cha ăn mặn đời con khát nước" cho rằng có một cái gì vô hình lưu truyền cái nhân xấu do đời cha tạo ra và chuyển giao cái quả xấu do nhân xấu mang lại cho con cái.
(Xem: 6031)
Học Phật không phải chỉ biết được lời Phật dạy, biết qua kiến thức suông để đàm luận, lý luận, mà cần phải thực tập, áp dụng vào cuộc sống của mỗi người trong sự nghe thấy, tư duy và hành động.
(Xem: 6472)
Trong Phật Pháp, đức Phật đã chỉ sẵn một phương pháp, một nghệ thuật hay còn gọi là một bí quyết để có một đời sống hạnh phúc, đó là gìn giữ năm giới.
(Xem: 21157)
Vô thườngtính chất căn bản của đời sống; tất cả mọi sự vật sinh ra có điều kiện đều có tính chất của bốn giai đoạn “thành, trụ, hoại, diệt”
(Xem: 5847)
Mỉm một nụ cười, trở về với một hơi thở, bước một bước chân thảnh thơi... cũng có thể là những phép lạ giữa một cuộc sống căng thẳng và quá bận rộn.
(Xem: 7216)
Về phương diện đạo lý, Phật giáo cao hơn các hệ thống đạo đức khác, nhưng đạo đức chỉ là bước đầu chứ không phải cứu cánh của Phật giáo.
(Xem: 8647)
Bát Chánh Đạogiáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo.
(Xem: 6929)
Chữ Không của Bát Nhã đứng vững là dựa trên lý nhân duyên, nếu lý nhân duyênchân lý thì chữ Không cũng sẽ là chân lý.
(Xem: 7773)
Đây là 4 pháp, 4 nguyên tắc sống mà tiền thân chư Phật, tức chư Bồ-tát thường áp dụng để nhiếp hóa, cảm hóa chúng sanh...
(Xem: 5426)
Có những người sinh trưởng ở những nơi mà niềm tin về tái sinh là một thành phần trong nền văn hóa của họ.
(Xem: 18723)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14515)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13703)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13661)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11929)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13350)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13743)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 14033)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13339)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15134)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16252)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant