Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Xác Lập Giáo Nghĩa: Bản Chất Của Đại Thừa

09 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 7157)
4. Xác Lập Giáo Nghĩa: Bản Chất Của Đại Thừa

ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
(大乘起信論; S. Mahāyāna Śraddhotpāda Śāstra)
Thích Nhật Từ
(Bài dạy tại lớp Cao Đẳng Phật học TP.HCM, khoá IV-2005)

BÀI 4: 
XÁC LẬP GIÁO NGHĨA: BẢN CHẤT CỦA ĐẠI THỪA

 

I. ĐẠI Ý

Giáo nghĩa chính yếu của đại thừa theo Khởi Tín Luận không gì khác hơn chính là cái tâm với các hạt giống đời và đạo hay thế giansiêu thế, với ba nội dung vĩ đại: bản thể (thể) tính chất (tướng) và hoạt dụng (dụng).

II. NGUYÊN VĂN

Đã trình bày mục đích tạo luận,[1] kế đến xin trình bày phần xác lập giáo nghĩa.[2] Nói một cách bao quát, Đại thừa có hai phương diện.[3] 

1. [Đại thừa về phương diện] pháp:[4] chính là tâm của chúng sinh.[5] Tâm này có khả năng bao hàm tất cả hạt giống (pháp) thế gianxuất thế gian. Có thể nương vào hai tính chất[6] của tâm để trình bày giáo nghĩa đại thừa

1.a. Tính chất chân như của tâm[7] nhằm giới thiệu bản thể của đại thừa

1.b. Tính chất sinh diệt theo nhân duyên của tâm[8] nhằm trình bày thể,[9] tướng và dụng Đại thừa.

2. [Đại thừa về phương diện] nghĩa[10] bao gồm ba vĩ đại.

2.a. Thứ nhất là thể vĩ đại: nghĩa là thể của đại thừachân như tồn tại trong tất cả sự vật,[11] không biến thiên, không tăng không giảm, không dị biệt.[12] 

2.b. Thứ hai là tướng vĩ đại: nghĩa là bào thai Như Lai[13] chứa đủ[14] vô lượng công đức như đặc tính.[15] 

2.c. Thứ ba là dụng vĩ đại: có khả năng sinh ra hệ nhân quả thiện của thế gianxuất thế gian

Tất cả đức Phật đã cỡi cổ xe này[16] và các bồ-tát đang tiếp tục nương theo pháp này để đạt được quả vị Như Lai.[17]

III. NHẬN XÉT

1. Tâm: Đối tượng của Đại thừa: Sự xác lập giáo nghĩa của Khởi Tín Luận chủ yếu giới thiệu bản chất của Đại thừa, vốn không phải là khái niệm hay học thuyết đối lập với học thuyết của các trường phái bị xem là tiểu thừa, như trong thời kỳ phân chia bộ phái. Để hiểu rõ giáo nghĩa đại thừa trong Khởi Tín Luận, hành giả phải quán triệt “đại thừa là gì?” hay nói cách khác “đối tượng hay nội dung của đại thừa,” vốn được bản đời Lương dịch là “pháp.” Pháp ở đây không có nghĩa là pháp môn hay mọi sự vật hiện tượng, mà được hiểu với nghĩa hẹp là “đối tượng nhận thức” của đại thừa. Đối tượng nhận thức, khảo cứu, hành trìchuyển hoá của đại thừa chính là “tâm của chúng sinh.” Tâm đó không chỉ là phương diện “tâm bình thường thị đạo” mà bao gồm luôn “cái tâm phi bình thường thị đạo hay phi đạo.” Tâm ở đây là đối tượng chung nhất, vừa bao gồm bản thân nó, tính chất hay nội dung tốt và xấu, tiêu cựctích cực, phàm và thánh, trói buộcgiải thoát của nó, cho đến cả nguyên lý hình thành và vận hành của nó. 

Giáo nghĩa của đại thừa được trình bày trong Khởi Tín Luận là một triết thuyết (a system of philosophy) rất mới. Mới ở chỗ giáo nghĩa này được xác lập trên “tâm của chúng sinh,” chứ không phải “tâm chúng sinh.” Tâm chúng sinh là loại tâm còn nặng phàm tính, bị chi phối bởi các khuynh hướng tâm lý tham lam, sân hậnsi mê, dẫn đến tình trạng hoặc là ủng hộ hay phủ định (thuận ứng và nghịch ứng). Tâm chúng sinh là cái tâm phàm phu, làm chúng sinh bị chìm đắm trong sinh tử và khổ đau. Trong khi đó, “tâm của chúng sinh” là cái tâm có hai phương diện tốt và xấu, tích cựctiêu cực. Phương diện tiêu cực của “tâm của chúng sinh” chính là cái phàm tục thông qua dục ái, hữu ái, vô hữu ái. Phương diện tích cực của “tâm của chúng sinh” là thái độnhận thức hướng về sự giác ngộgiải thoát. Tâm đó và Phật tính vốn không sai khác về mặt bản thể, nhưng rất sai khác về phương diện thời gianhoàn cảnh.

Cái “tâm của chúng sinh” đó không phải là trái tim vật lý hay trái tim cảm xúc (S. hrdaya; English. heart). Tâm này có tiềm năng giác ngộ, có thể giúp cho hành giả thành tựu sự an lạcgiải thoát. Tâm của chúng sinh vốn dung chứa tất cả các hạt giống (pháp) đời và đạo, phàm tục và thanh cao, hệ luỵ và giải thoát. Cái tâm đó dù có khi nhiễm khi tịnh; khi phàm khi thánh; khi trôi lăn trong sinh tử luân hồi, khi vượt khỏi ba cõi; khi ngộ khi mê vẫn muôn đời là thế: bất tăng bất giảm.

2. Bản thểHiện tượng: Điểm đặc sắc của Khởi Tín Luận là trình bày tâm qua hai phương diện: “chân như và sinh diệt” hay nói theo triết học hiện đại là “bản thể và hiện tượng.” Bản thể thuộc về phạm trù tuyệt đối. Sinh diệt thuộc về phạm trù tương đối. Bản thể siêu việt tất cả mọi mặc định của ngôn ngữtư duy; trong khi đó, hiện tượng không thể tách rời khỏi mặc định. Bản thể là nội hàm, bao hàm luôn cả phương diện ngoại diên của hiện tượng. Bản thể như nước; hiện tượng như sóng. Sóng không thể tồn tại ngoài nước. Không nước nào lại không có sóng. Sóng xuất hiện do tác động của duyên trong thế giới hiện tượng. Nước vẫn không tăng giảm theo các biến thiên của sóng. Nước và sóng không phải một nhưng cũng không phải hai. Tương tự, chân nhưsinh diệt của mọi sự vật hiện tượng là hai phương diện của thực tại, vừa tách lập vừa thống nhất.

Từ phương diện chân như, tức bản chất chân thật của mọi sự vật và hiện tượng, tâm đó chính là bản thể của đại thừa, không hề bị thay đổi, lưu chuyển, bất biến, vượt thoát khỏi mọi giả định. Từ phương diện hiện tượng sinh diện do duyên, tâm của chúng sinh chạy theo tính chất và hoạt dụng, nên phải cần đến ngôn từ, mặc định, duyên khởi. Từ khi bỏ rơi bản thể chân như, “tâm của chúng sinh” vốn có tiềm năng như Phật đã trở thành “tâm chúng sinh” hay còn gọi là “tâm phàm phu,” đối lập với “tâm Phật” tức “tâm giác ngộ tuyệt đối.” Nghĩa là rời khỏi bản thể, hành giả đã đánh mất vị trí tuệ giác, cái mà Đại Kinh Sư Tử Hống thứ 11 trong kinh Trung Bộ gọi là “vị trí ngưu vương.”

3. Thể Tướng Dụng của Đại thừa: Nội dung của đại thừa bao gồm ba phương diện vĩ đại hay phổ quát hoá: thể đại thừa, tướng đại thừa và dụng đại thừa. Thể tướng và dụng là ba phương diện của tất cả sự vật và hiện tượng, từ vật lý đến tâm lý. Nguyên lý bộ ba này rất giống với quan niệm của triết gia Spinoza về thực thể (substance), đặc tính (attributes) và phương thức (modes) và dĩ nhiên cũng rất gần với học thuyết “thực (dravya, substance), đức (guna, qualities) và nghiệp (karma, action)” của Số Luận (Vaiṣeśika).

Thể là bản chất hay nền tảng của một sự vật. Tướng ở đây không có nghĩa là tướng trạng hay tướng hình mà là tính chất hay đặc điểm của sự vật đó. Dụng là hoạt dụng hay tác dụng của sự vật hay hành vi của con người cụ thể

Ví dụ, mặc dù nước có nhiều loại như nước sông, nước biển, nước mưa, nước suối, nước bọt, nước dịch, nước đá, hơi nước v.v… nhưng có cùng chung một thể là chất lỏng. Như vậy có thể gọi “chất lỏng không màu” là thể của nước, dù là loại nước gì. Tính chất (tướng) của nước rất khác nhau, tuỳ thuộc điều kiện và môi trường. Nước biển có vị mặn và nhìn thì thấy tưởng chừng có màu xanh do độ sâu thẳm của biển. Các loại nước sông không có vị mặn, đục trong khác nhau tuỳ theo địa dư và chất phù sa, thượng nguồn hay hạ nguồn, trăng tròn hay trăng khuyết. Các loại nước dịch có mùi vị khác nhau. Trong khi đó, nước đá thì lạnh ngắt. Hơi nước lại bay lên trên, rồi trong điều kiện nhiệt độ nhất định sẽ trở thành mưa và rơi xuống đất. Tính chất khác nhau của các loại nước đã tạo ra hoạt dụng của nước. Có loại nước được dùng để uống, để giải khát, để tắm giặt, để bơi lội, để tăng cường thể lực trong y học, để chạy các động cơ, để tạo nguồn phát điện, để điều hoà nhiệt độ v.v… Dụng của nước tuỳ thuộc vào bản thểtính chất của từng loại nước. Không có thể chất lỏng thì nước không còn là nước nữa.

Thể của đại thừa chính là trạng thái chân như, chưa hề bị biến thiên, chưa từng tăng và giảm, vẫn giữ nguyên trạng thái bình đẳng. Chân nhưbản chất “như vậy” của mọi sự vật hiện tượng, trạng thái chưa bị phân cách của ý thức phân biệt thông qua các học thuyết nhất nguyênnhị nguyên, hữu thầnvô thần.

Tướng của đại thừa chính là các đặc tính của đại thừa. Đặc tính này chính là kho tàng như lai hay phôi thai giác ngộ, có khả năng nuôi dưỡngtrưởng thành tất cả tiềm năng công đức (tính công đức), giúp người thành tựu tất cả các giá trị cao thượng và siêu việt của đạo đứctuệ giác.

Dụng của đại thừa chính là năng lực làm sản sinh tất cả nhân lành quả tốt của đời và của đạo. Nhân lành quả tốt thuộc thế gian bao gồm tất cả hành vi mang lại lợi lạchạnh phúc nhân bảnthiên giới. Nhân lành quả tốt thuộc xuất thế gian chính là quả giác ngộ từ thánh quả a-la-hán trở lên, giúp cho hành giả không còn thoái lui trong sinh tử luân hồi. Hành giả đạt được quả giác ngộ rồi có khả năng chuyển hoá người khác cùng đạt được các giá trị an vui như mình.

Tâm của chúng sinh dù còn trong trạng thái sinh tử nhưng đã có khả năng thực hiện thành công các việc khó làm nên được gọi là vĩ đại. Tính chất vĩ đại đó còn nằm ở chỗ tất cả đức Phật quá khứ, Phật hiện tại và Phật vị lai đều cỡi cỗ xe tâm đó để đạt được quả vị Như Lai. Các vị bồ-tát lại tiếp tục cỡi cổ xe này để đến được thánh địa giác ngộ tuyệt đối. Đối tượng và nội dung đại thừa chính nằm ở cái tâm của chúng sinh. Cái tâm đó không phải là cái duy tâm đối lập với cái duy vật, mà là cái tâm tiềm năng biến các hạt giống tốt trở thành hiện thực của giác ngộgiải thoát.

IV. CHÚ THÍCH THUẬT NGỮ

chúng sinh (S. sarvasattva): còn gọi là tất cả chúng sinh, thuật ngữ chỉ chung cho các loại hình sự sống, bao gồm sự sống của con người, các loài động vật và sự sống của các loài thực vật. Về sau này, trong nền văn học Phật giáo, khái niệm “hữu tình” là một dịch từ mới thay thế cho từ chúng sinh, ám chỉ cho chúng sinh có tình thức, bao gồm con ngườiđộng vật mà thôi.

thế gian: thuật ngữ đa nghĩa: a) chỉ cho những gì thuộc về trần thế, phàm tục, hay nói nôm na là “đời.” b) thế giới vật lý nơi con người sắc giới đang sống và trở thành đối tượng nhận thức của con người

xuất thế gian: thuật ngữ đa nghĩa: a) trạng thái đối lập hay vượt lên trên những gì thuộc về trần thế, phàm tục, đời; tính chất siêu việt khỏi các điều kiện; đặc tính phi phàm; sự thoát tục; sự giải thoát khỏi mọi hệ luỵ. b) viết đủ của từ “xuất thế” vốn có nghĩa là “vượt khỏi đời” lại được hiểu sai thành khái niệm diễn tả cho sự tiêu cực, trốn tránh khỏi cuộc đời, không còn liên hệ gì với cuộc đời. Trong văn học Việt Nam cận đại, “xuất thế” thỉnh thoảng được sử dụng chỉ cho sự yếm thế của tôn giáocon người tôn giáo.

thế gianxuất thế gian (English: the world, phenomenal and supra-phenomenal): thuật ngữ đa nghĩa, diễn tả hai phương diện đối lập giữa một cái thuộc về trần thế và một cái siêu việt. a) đời và đạo = phàm tụcsiêu phàm = thế giansiêu thế = tầm thường và cao thượng. b) trạng thế mê và ngộ. c) hạt giốngnguyên nhân của luân hồi (thế gian) và giải thoát (xuất thế).

chân như (S. bhūta-tathatā; E. suchness): thuật ngữ đại thừa chỉ cho bản chất như thị hay chân thật của mọi sự vật và hiện tượng. Bản chất “như vậy” của mọi sự vật hiện tượng đối lập với tính chất ngoại diện hay bất kỳ tính chất nào do con người mặc định hay áp đặt lên. Chân như này chính là “không tính” theo Trung Quán, nhưng đối với hàng phàm phu trở thành một thực thể, tồn tại vĩnh hằng và có một tự tánh (sva-bhāva = an individual nature or own being). Chân như vượt lên khỏi thế giới hiện tượng hay các biến thái của sự vật hiện tượng, vốn bị điều kiện hoá bởi nguyên nhân hình thành và sự hoại diệt.

thể tướng dụng: 1) ba phương diện của một sự vật: thực thể, tính chất (tướng) và hoạt dụng (dụng). 2) ba phương diện của Đại thừa (the quintessence, the attributes, and the activity of the Mahāyāna): a) Thể của đại thừachân như, bản chất như thật vượt khỏi các tính chất giả lập của thế giới hiện tượng, không chịu sự chi phối của sự hình thành và hoại diệt, không tăng không giảm. b) tướng của đại thừanhư lai tạng chứa đựng tất cả công đức như một thuộc tính c) dụng của đại thừa là tác tạo hệ nhân quả thiện của đời và đạo, sinh tử và niết-bàn. 

Như Lai tạng (S. tathāgata-garbha): phôi thai Phật (the embryonic Buddha; Tathāgata embryo) hay bào thai Như Lai (Tathāgata womb). Khái niệm của đại thừa cho rằng tất cả chúng sinh có sẳn tiềm năng trở thành Phật. Tiềm năng đó là một phôi thai của sự giác ngộ tuyệt đối. Nhờ phôi thai hay bào thai này mà mặc dù bị chìm đắm trong sinh tử luân hồi do tác dụng của những yếu tố tiêu cực, chúng sinh vẫn không đánh mất tính chất tính Phật sẳn có.

Pháp và nghĩa (法及義): có thể hiểu nôm na là nội dung chứa đựng (what is) và ý nghĩa được giải thích (what signifies). Bản đời Đường dịch là “hữu pháp” và “pháp.” Trong thuật ngữ của đạo Phật, pháp (S. dharma; P. dhamma) vừa có nghĩa là thực tại (reality) vừa có nghĩa là nội dung và ý nghĩa của thực tại đó (its attribute and significance) và ngay cả bao hàm luôn nguyên lý vận hành của thực tại đó (its law).

tâm (S. citta; Eng. mind): trong Khởi Tín Luận tâm không được sử dụng với ý nghĩa nhị nguyên, đối lập với vật, chẳng hạn như trong thuật ngữ “duy tâm và duy vật.” Tâm ở đây không có nghĩa đen là trái tim (S. hrdaya; English. heart), lại càng không có nghĩa là một thực thể linh hồn siêu hình học (a metaphysical soul-entity). Ở đây tâm chỉ là một phương diện của chân như. Do đó, sẽ là một sai lầm về phương diện ngôn ngữ nếu chúng ta dùng từ “soul” để dịch chữ tâm trong Khởi Tín luận, như các học giả phương Tây là vấp phải.


[1] Lương: nhân duyên phần (緣分).

[2] Lương: lập nghĩa phần (立義分).

[3] Đường dịch là “hữu pháp cập pháp” (有法及法) tức hữu pháp và pháp, có phần tối nghĩa. Lương dịch là “pháp” () và “nghĩa” (). Suzuki (tr.53) dịch là “cái có nghĩa là” (What it is) và “cái được biểu đạt” (What it signifies).

[4] Đường: hữu pháp (有法).

[5] Dựa theo bản Đường “tâm của tất cả chúng sinh” (一切眾生心). Bản Lương: chúng sinh tâm (眾生心).

[6] Dịch thoát nghĩa của chữ tướng ().

[7] Lương: tâm chân như tướng (心真如相).

[8] Lương và Đường thống nhất: tâm sinh diệt nhân duyên tướng (心生滅因緣相).

[9] Lương ghi là “tự thể” (自體) trong khi Đường ghi gọn là “thể.”

[10] Đường ghi đơn giản là “pháp” () để phân biệt với “hữu pháp” (有法).

[11] Lương: nhất thiết pháp (一切法).

[12] Chúng tôi tổng hợp nội dung của hai bản dịch Lương và Đường. Lương: mọi sự vật hiện tượng đều không tăng không giảm về mặt chân như (謂一切法真如平等不增減故). Bản Đường dịch rõ nghĩa hơn: “chân như của mọi sự vật hiện tượng luôn bình đẳng, không thêm bớt, không sai biệt, dù ở trạng thái nhiễm hay tịnh” (一切法真如在染在淨性恒平等無增無減無別異故). HT. Trí Quang (tr. 59) dịch gọn là “chân như nhất quán bất biến.” 

[13] Lương: Như Lai tạng (如來藏); Đường: Như Lai bản (來藏本).

[14] Đường dịch là “cầu đầy đủ” (求具足).

[15] Lương và Đường thống nhất: tính công đức (性功德).

[16] Lương và Đường thống nhất: Chư Phật bổn sở thừa (諸佛本所乘) có nghĩa đen là “cỗ xe được chư Phật cỡi đi.”

[17] Lương: Như Lai địa (如來地). Đường: Phật địa (佛地) có thể dịch nôm na là “cảnh giới của Phật” hay “trạng thái giác ngộ tuyệt đối” hay “trạng thái giác ngộ của Phật.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10362)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12258)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15419)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16686)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12314)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11582)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14354)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24719)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10751)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12562)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10478)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12422)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11726)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12109)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13082)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11510)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17528)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21576)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10739)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19366)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12500)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26189)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14472)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13804)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16938)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17718)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13238)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12604)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11685)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11699)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20609)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19150)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19685)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18798)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15156)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15121)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14054)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15595)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14615)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15929)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12960)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18536)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15850)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11140)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53795)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13056)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16678)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15531)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 20036)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15629)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15466)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15258)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10476)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20465)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15620)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13124)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20349)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13366)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29103)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11789)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant