Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sơ Lược Tiểu Sử Tác Giả

10 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 13467)
Sơ Lược Tiểu Sử Tác Giả

PHẬT HỌC THƯỜNG THỨC

Tâm Minh Lê Đình Thám

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ TÁC GIẢ

TÂM MINH LÊ ĐÌNH THÁM

blankBác sĩ Lê Đình Thám sanh năm 1897 tại làng Đồng Mỹ (Phú Mỹ), tổng Phú Khương, phủ Đoeẹn Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Bác sĩthứ nam của cụ Lê Đĩnh (làm quan dước triều Tự Đức với chức Đông các điện Đại học sĩ sung chức Binh bộ thượng thư) và mẹ là cụ bà Phan Thị Hiệu (kế thất).

I. ĐƯỜNG ĐỜI

Thời thơ ấu, Bác sĩ cùng anh là Lê Đình Dương (sau này là Đông Dương y sĩ) đã trực tiếp học chữ Hán với thân phụ. Cả hai anh em đều thông minh xuất chúng ngay từ thuở còn thơ.

Lớn lên, Bác sĩ theo học ở các trường Pháp – Việt. Trong những năm còn là học sinh hay sinh viên, Bác sĩ đã được cảm tình của cả thầy và bạn, luôn luôn giành vị thứ hàng đầu trong các kỳ thi tốt nghiệp cuối cấp.

Bác sĩ tốt nghiệp Y sĩ Đông Dương (Thủ khoa) tại Hà Nội năm 1916 và đỗ Y khoa Bác sĩ ngạch Pháp quốc tại Y khoa Đại học đường Hà Nội năm 1930.

Bác sĩ ra trường (1916) đúng vào lúc phong trào Duy Tân khởi nghĩa bị thất bại, bào huynh là y sĩ Lê Đình Dương bị Pháp bắt đày lên Ban Mê Thuột và mất tại đó. Bác sĩ bị tình nghi và luôn luôn bị theo dõi. Trong thời gian này, Bác sĩ còn nghiên cứu thêm về triết học Động phương như Nho, Lão, Phật,…

Năm 1926, trong lúc đang phụ trách y sĩ điều trị tại bệnh viện Hội An (Quảng Nam), Bác sĩ được tin cụ Phan Chu Trinh mất. Bác sĩ cùng những người yêu nước chống Pháp thời bấy giờ đã làm lễ truy điệu trọng thể và chịu tang nhà chí sĩ yêu nước. Thực dân Pháp đã thuyên chuyển Bác sĩ ra Hà Tĩnh, và sau đó ít lâu, lại thuyên chuyển về Huế đảm trách y sĩ trưởng Viện bào chế và vi trùng học Louis Pasteur. Ở đây, Bác sĩ đã cộng tác với Bác sĩ Normet (Giám đốc Y tế Trung kỳ) phát minh ra sérum Normet và mấy dược phẩm có giá trị khác. Trong thời gian này, Bác sĩ lên chùa Trúc Lâm, cách kinh đô Huế khoảng 12 km, để học đạo với Hòa thượng trụ trì ở đây là ngài Giác Tiên. Sau khi nhận chân được giáo lý cao thâm của đạo Phật, Bác sĩ đã chuyển hướng đời mình: Phát nguyện Qui y Tam bảo, trường trai trong những ngày còn lại của đời mình, quyết tâm nghiên cứu học hỏi kinh điểm Phật giáo để hoằng hóa độ sanh. Bác sĩ đã được Hòa Thượng Giác Tiên làm lễ thọ Tam qui Ngũ giới và đặt pháp danhTâm Minh.

 

II. ĐƯỜNG ĐẠO

Năm 1929 – 1933, Bác sĩ thọ giáo với Hòa thượng phướng Huệ (chùa Thập Tháp, Bình Định). Nghiên cứu các bài giảng của ngài Tái Hư đạo sư ở Trung Hoa về cách thức tổ chức Phật giáo, Bác sĩ đã đệ đạt ý kiến của mình lên quí Hòa thượng Phước Huệ, Giác Tiên, Giác Nhiên, Tịnh Khiết và được các Ngài chấp thuận. Từ đó Hội An Nam Phật học ra đời, do các vị tôn túc hòa thượngcư sĩ tiên tiến đứng ra chịu trách nhiệm gánh vác công cuộc hoằng dương Chánh pháp. Trụ trở đầu tiên đặt ở chùa Trúc Lâm do Bác sĩ làm Hội trưởng và các tôn túc Hòa thượng nằm trong Ban Chứng MinhCố vấn cho Hội. Sau đó, Hội dời trụ sở về chùa Từ Đàm (mới được xây dựng lại) và bắt đầu truyền đạo với nhiều hình thức mới do sáng kiến và công lao hàng đầu của Bác sĩ:

Thuyết pháp thường kỳ cho tín đồ nghe tại chùa Từ Đàm và Từ Quang.

- Mở trường đào tạo Tăng tài từ sơ đẳng đến cao đẳng Phật học.

Thành lập các Tỉnh hội, Chi hội, Khuôn hội để gánh vác trách nhiệm hoằng dương Chánh pháp khắp các tỉnh miền Trung.

Thành lập đoàn Thanh niên Phật học Đức dục, các Gia đình Phật hóa phổ.

- Xuất bản tờ báo Phật giáo (Nguyệt san Viên Âm).

Xây dựng Đại tòng lâm tại Kim Sơn (Huế).

Từ năm 1934 đến 1945 là những năm hoàn chỉnh các tổ chức Phật giáo và công cuộc đào tạo Tăng-tài. Kết quả của những năm tháng mà Bác sĩ đã đóng góp mãi mãi được ghi nhớ: Một thế hệ Tăng-sĩ tài ba đã nở rộ (trong đó có một số hiện nay đang giữ những nhiệm vụ trọng yếu trong Giáo hội); một giới cư sĩ Phật tử thuần thành, có thực tu thực học, trợ thủ đắc lực cho giới Tăng-già trong công cuộc hoằng dương chánh pháp.

 

III. ĐỜI ĐẠO HÀI HÒA

Mùa thu năm 1946, theo tiếng gọi chống thực dân Pháp cứu nước, Bác sĩ cùng gia đình rời khỏi Huế vào chiến khu tham gia kháng chiến chống Pháp đồng thời cũng tiếp tục làm Phật sự tại địa phương (Liên khu V). Sau khi công cuộc chống thực dân Pháp thắng lợi, Bác sĩ về thủ đô Hà Nội và được mời giữ chức Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới của Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Hòa bình thế giới, góp phần thắt chặt tình hữu nghị giữa nhân dân các nước, gìn giữ hòa bình. Cũng trong thời gian này, Bác sĩ được bầu làm Phó Hội trưởng Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam tại thủ đô Hà Nội. Ngoài những giờ làm việc cho xã hội, Bác sĩ thường đến chùa Quán sứ để dịch kinhgiảng Pháp cho Tăng, Ni và Phật tử. Mặc dù, lúc ấy đất nước ta đang bị chia cắt làm hai miền Nam, Bắc, Bác sĩ vẫn vun vén mối quan hệ đạo tình giữa Phật giáo miền Nam và Phật giáo miền Bắc. Một bằng chứng cụ thể là trong Đại hội Phật giáo thế giới họp tại Ấn Độ năm 1957, Bác sĩ đã vận động để cho hai phái đoàn Phật giáo miền Bắc và miền Nam nhập làm một phái đoàn Phật giáo Việt Nam và bầu Hòa thượng Huệ Quang làm trưởng đoàn.

Sau những năm tháng tận tụy phục vụ đắc lực cho đạo pháo và dân tộc, Bác sĩ đã bình thản ra đi vào 10 giờ sáng ngày 23-4-1969 (nhằm 7.3 ÂL) tại Hà Nội.

IV. MẤY CẢM NGHĨ CỦA NGƯỜI CHÉP TIỂU SỬ VỀ CUỘC ĐỜI CỦA BÁC SĨ TÂM MINH LÊ ĐÌNH THÁM.

1. Nguyên nhân gì đã đưa Bác sĩ Lê Đình Thám đến với đạo Phật?

Trong các bài viết về tiểu sử BS. Lê Đình Thám, thường thấy có nói đến một chi tiết được xem nhưnguyên nhân chính đã thu hút Bác sĩ Lên Đình Thám đến với đạo Phật. Đó là bài kệ của tổ Huệ Năng. Câu chuyện được kể như sau: Năm 1926, trong thời gian công tác tại bệnh viện Hội An (Quảng Nam), một hôm đi viếng cảnh chùa Non Nước (Đà Nẵng). Bác sĩ tình cờ thấy trên vách chùa có ghi bài kệ của tổ Huệ Năng (“Bồ đề bổn vô thọ, Minh cảnh diệc phi đài, Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạn trần ai”). Bài kệ đã đập mạnh vào tâm trí Bác sĩ, ghi một ấn tượng sâu sắc khá phai mờ. Hai năm sau(1928), khi được thuyên chuyển về làm y sĩ trưởng Viện bào chế và vi trùng học Louis Pasteur tại Huế, nhân mội hôm đi tham quan chùa Trúc Lâm, Bác sĩ đã yết kiến Hòa thượng Giác Tiên và được Hòa thượng khai ngộ cho về ý nghĩa thâm sâu của bài kệ. Từ đó, Bác sĩ phát Bồ-đề tâm, xin quy y Tam bảo và nhận Hòa thượng Giác Tiên làm bổn sư.

Chúng tôi không phủ nhận ý nghĩa thâm sâu của bài kệ của tổ Huệ Năng, cũng không phủ nhận cái ảnh hưởng có mức độ của bài kệ trong tâm hồn của Bác sĩ. Nhưng cho rằng bài kệnguyên nhân chính thúc đẩy Bác sĩ đến với đạo Phật thì chưa thỏa đáng. Chúng ta thử đặt một giả thiết ngược lại: Nếu không tình cờ đọc được bài kệ ấy trên vách chùa Non Nước, nếu không có cơ may gặp được Hòa thượng Giác Tiên giải thích cho Bác sĩ cái ý nghĩa thâm sâu của bài kệ thì Bác sĩ sẽ không đến với Phật, để trở thành một trụ cột chính của phong trào Chấn hưng Phật giáo của miền Trung, và đồng thời, của cả nước chăng? Chắc chắn một giả thiết như vậy không thể đứng vững được. Chúng tôi có thể khẳng định mà không sợ sai lầm rằng, dù có hay không có bài kệ của tổ Huệ Năng, con đường tất yếu mà Bác sĩ phải chọn để đi là con đường đến với đạo Phật. Và để có được sự khẳng định này, chúng tôi đã căn cứ trên nhiều yếu tố cụ thể: bản thângia đình của Bác sĩ, hoàn cảnh xã hội và giai đoạn lịch sử của đất nước bấy giờ.

Đọc tiểu sử của Bác sĩ, chúng ta nhận thấy Bác sĩ đã hưởng được nhiều thuận lợi, may mắn trong đời mà ít người có được: Một dung mạo khôi ngô dễ mến, một nền học vấn quán thông cả Đông và Tây phương, một địa vị tri thức hàng đầu trong nền trật tự xã hội mới. Nhưng bên cạnh những thuận lợi quý báu ấy, những khó khăn trở ngại mà Bác sĩ phải đương đầu cũng không phải là ít: Một thân sinh làm đến chức Thượng thư, nhưng đã treo ấn từ quan, nghĩa là đang có “vấn đề”với triều đình; một người anh ruột bị bắt và bị chết trong ngục thất vì chống chế độ thực dân Pháp; một tài năng xuất chúng nhưng không được trọng dụng, vì chính quyền thực dân nghi ngờ; một lòng yêu nước nồng nàn, nhưng phải sống trong cảnh cá chậu chim lồng. Và đây chính là nỗi đau lớn nhất, niềm trăn trở nhức nhối nhất của Bác sĩ. Làm cách nào góp sức cởi cái ách thực dân quá lớn đang đè nặng trên đầu dân tộc? Các cuộc khởi nghĩa vũ trang của những người đi trước đã bị tiêu diệt, các phong trào yêu nước Cần Vương, Văn thân, Đông du đã theo nhau tan rã, nền cai trị của thực dân mỗi ngày mỗi được củng cố, Triều đình Huế chỉ còn là cái bóng mờ nhạt của uy quyền quốc gia.

blankChúng ta có thể hình dung được những ngày chán chường Bác sĩ phải kéo lê cuộc đời tẻ nhạt của mình, như một cuộc lưu đày, sau khi ra trường, qua 7 tỉnh miền Trung, từ Bình Thuận đến Hà Tĩnh. Và khi từ Hà Tĩnh được thuyên chuyển về Huế, thực dân thôi “săn sóc” Bác sĩ và cuộc lưu đày 10 năm đã chấm dứt chăng? Chưa đâu! Đây chỉ là một sự thay đổi chiến thuật: Thực dân không muốn để cho Bác sĩ ở lâu ở Hà Tĩnh – một tỉnh nghèo nhất nước, nhưng cũng sản sinh ra nhiều nhà chí sĩ, cánh mạng nhất nước – là vì sợ Bác sĩ “nhiễm” nặng thêm cái tinh thần yêu nước chống ngoại xâm, nên đưa Bác sĩ về Huế - nơi cũng sản sinh không ít những nhà chí sĩ yêu nước thương nòi, nhưng cũng không ít những “thương nữ bất tri vong quốc hận”, đêm đêm trên dòng “sông Hương nước chảy lờ đờ”, cất lên những giọng ca ai oán, sầu bi làm nhụt chí nam nhi. Trong những năm đầu về Huế, vị Bác sĩ kính mến của chúng ta có lẽ cũng đã có lúc bị mê hoặc bởi những tiếng đàn, tiếng ca réo rắt, ai oán ấy. Nhưng rồi một buổi sáng Chủ nhật, Bác sĩ đã dời dòng sông Hương để đi về phái núi Ngự, tìm đến những ngôi chùa cổ rêu phong để học đạo, rồi sau đó đã xin thọ Tam qui, Ngũ giới với những vị cao tăng thạc đức. Chúng ta có thể hình dung được tiếng cười khoái trá của viên Chánh sở Mật thám Sogny khi được nhân viên báo cáo sự kiện này. Ông ta nói gì trước một tin bất ngờ như vậy? Có thể là một câu nói tương tự như thế này với cái giọng Việt Nam lơ lớ: “Đi tu, rời bỏ tiếng dàn hát trên sông Hương để đi theo tiếng chuông tiếng mõ sau núi Ngự? Tốt thôi, cứ để cho anh ta tự do đi chùa!”. Đối với viên mật thám vô cùng quỷ quyệt này, Bác sĩ lúc bấy giờ là một “anh hùng đã thấm mệt”- nói nôm na là đã “hết xài”. Nhưng đối với Bác sĩ, đây là giai đoạn khởi đầu của một cuộc đờiý nghĩa. Bác sĩ đến với Phật giáo không phải là để tìm sự thảnh thơi mà chính là để thực hiện tấm lòng yêu nước thiết tha của mình, bằng cách trở về nguồn, tìm lại những tinh coa của nền văn hóa truyền thống dân tộc, một nền văn hóa chịu ảnh hưởng sâu đậm của đạo Phật, đạo của Từ biTrí tuệ, Bình đẳng và Vị tha… Qua cái nhìn chính xác và sâu sắc của Bác sĩ, đạo Phật có một giá trị nhân bản và một tiềm năng rất lớn, nếu biết khai thác và cải cách cho thích hợp với thời đại mới, thì sẽ cống hiến cho đời nhiều chất liệu quí báu để xây dựng con ngườixã hội tốt đẹp. Nắm vững chủ trương đúng đắn ấy, Bác sĩ đã tập hợp và huy động được những đồng tâm đồng chí trong giới Tăng-ni và Phật tử có tâm huyết bắt tay vào phong trào Chấn hưng Phật giáo. Và từ đó, đạo Phật Việt Nam đã có một sắc thái mới mẻ, trong sáng hơn. (Hình bên trên: tượng BS. Tâm Minh đặt tại khuôn viên chùa Từ Đàm, Huế)

2. Những yếu tố gì trong con người của Bác sĩ Lê Đình Thám đã đưa Bác sĩ thành công trong công cuộc Chấn hưng Phật giáo?

Có một lý tưởng cao đẹp đã là khó, thực hiện thành công lý tưởng cao đẹp ấy lại còn khó hơn. Hai cái khó ấy, Bác sĩ đã vượt qua không mấy khó khăn. Trước tiên, là nhờ trí tuệ thông minh vô cùng nhạy bén của Bác sĩ. Thứ đến, là có một nền học vấn sâu rộng vững chắc quán xuyết cả Đông Tây (như chúng ta đã thấy ở phần trên), cộng thêm với cái đức tính say mê tìm tòi, hiểu biết về nhiều lĩnh vực: Khoa học, triết học, văn chương, nghệ thuật,… Một sự trùng hợp ngộ nghĩnh, không mà như có chuẩn bị trước: Đức Phật thường dạy đệ tử cần phải trau dồi Ngũ minh để giúp đời: Nội minh (tinh thông giáo lý nội điển), Nhân minh (tinh thông phương pháp biện luận), Thanh minh (tinh thông ngôn ngữ), Y phương minh (tinh thông y lý để chữa bệnh), Công xảo minh (tinh thông nghề nghiệp). Trong năm cái này, Bác sĩ có đủ cả năm và đã sử dụng một cách thành thạo xuất sắc, đạt hiệu quả cao, không ai sánh kịp.

Nhưng nếu chỉ có trí tuệtài năng, thông minhkiến thức thì chưa đủ để trở thành một nhà lãnh đạo lớn nói chung, và của Phật giáo nói riêng.

Bác sĩ, có một đức tánh quý báu nhất, đã đưa Bác sĩ đến thành công, là sự quên mình vì công việc chung. Khi bắt tay vào một công việc gì, Bác sĩ tận tụy hết mình, không quản khó khăn mệt nhọc, không tiếc sức khỏe, thời gian, tiền bạc, chỉ mong sao cho công việc được viên thành. Vì không chỉ thấy có mình, nêm Bác sĩ đã dễ dàng thông cảm, hiểu thấu tâm tư, nguyện vọng, sở trường sở đoản của người khác và từ sự hiểu biết đó, dành cho họ một chỗ đứng thích nghi, một công tác thích hợp với khả năng của mỗi người, mỗi giới trong cái công trường rộng lớn của xã hội.

Chúng ta không thể không ngạc nhiênvô cùng thán phục Bác sĩ, khi thấy Bác sĩ đã động viên được không những giới đồng liêu tân học, mà cả giới cựu học thâm Nho, không những giới tưmà cả giới Tăng-già, từ các bậc đại lão Hòa thượng cho đến cháu thanh, thiếu, đồng niền, mọi người hăng hái tham gia vào phong trào Chấn hưng Phật giáo. Bác sĩ đã có một sức thu hút rất lớn, đã tập họp được các giới đồng bào đến với Phật giáo, là do Bác sĩ đã thể hiện được đức tánh Vô ngã, Vị tha.

Cuộc đời Bác sĩ là một tấm gương sáng cho Phật tử chúng ta cùng soi chung.

 

Tp. Hồ Chí Minh, ngày lễ Phật Đản

PL.2535 (28-5-1991)

Võ Đình Cường


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6798)
Hai chữ quy y có nghĩa là : quay về hay hồi chuyển. Y là nương tựa hoặc dựa vào, những hành vi hồi chuyển nương tựa hoặc quay đầu dựa dẩm tin tưởng.
(Xem: 6222)
Niềm tin sâu xa nhất trong giáo lý nhà Phật là tất cả mọi người đều có thể tự cải biến mình trong từng giây phút một. Chẳng có gì gọi là định mệnh cả.
(Xem: 6547)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn.
(Xem: 7805)
Nhẫn nhục là chịu nhịn những điều sỉ nhục xấu hổ, nhục nhã, chịu đựng tổn thương trước những cảnh, sự việc không vừa lòng, nghịch ý, trái tai gai mắt;
(Xem: 6305)
Nền giáo dục hòa bình của Đạo Phật là một con đường đạo đức nhân bảnthiết thực, là căn cứ trên chân lý từ bi, công bằng và...
(Xem: 6625)
Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy mọi sự vật, hiện tượng trong phạm vi giới hạn của đôi mắt mình, nhưng...
(Xem: 5748)
Tôi đến với Phật pháp vì … quá khổ.
(Xem: 5657)
Phải luôn luôn có tâm tùy hỷ đến tất cả mọi người, nếu chưa được giải thoát thì sau khi chết, năng lực tùy hỷ sẽ đẩy mình đến những cảnh giới tốt.
(Xem: 5699)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 6816)
Chúng ta biết tu là chúng ta biết sống. Một thứ tài sản không bao giờ bị mất. Ai muốn giàu, muốn sung túc thì hãy ráng nhớ giữ gìn tài sản này.
(Xem: 6085)
Thuyết bốn Đế, tức bốn Chân lýcăn bản, là cốt lõi tinh túy của đạo Phật, là nội dung bài thuyết pháp đầu tiên của Phật ở Vườn Nai (Bénarès).
(Xem: 7105)
Đạo Phật thường quán niệmsuy tưởng về khổ đau vì đó là kinh nghiệm chung của toàn thể nhân loại.
(Xem: 6221)
Chúng ta chẳng cần tìm Phật ở đâu xa, ngài luôn luôn ở ngay trong cuộc đời, nhưng chúng ta không thấy, vì ...
(Xem: 6180)
Chúng ta có thể tìm ra chánh pháp của Phật, nghĩa là chân lý, ở khắp mọi nơi, chứ không bắt buộc chỉ tìm trong kinh điển.
(Xem: 6613)
Chúng ta đã tìm Phật và tìm Pháp, nay phải đi tìm Tăng cho đủ Tam Bảo, nói cho đủ là Tăng già, phiên âm chữ Phạn Sangha.
(Xem: 5914)
Dù là xuất gia hay tại gia, thường niệm pháp Quy Y trong đời sống, lấy Tam Bảo làm mục đích làm lợi ích cho Dân Tộc và cho cả chúng sinh.
(Xem: 6066)
Kinh sách và Đạo Pháp của Phật không phải giúp để góp nhặt sự hiểu biết mà phải dùng để tự biến cải lấy chính ta.
(Xem: 6462)
Tâm chúng sinh và Phật vốn không khác. Tất cả đều do tâm tạo. Mười cõi cũng do tâm tạo.
(Xem: 5710)
" Nầy các Tỳ kheo Như Lai nói tác ý tức là nghiệp vì có ý muốn làm mới có hành động thân khẩu ý ". Như vậy mười nghiệp lành là 10 điều giúp cho con người thực hiện trong sạch hoá thân khẩu và ý .
(Xem: 6851)
Khái niệm về sự tái sinh không phải là một khái niệm đặc thù của Phật Giáo mà đấy chỉ là một học thuyết chủ trương sự « đầu thai »
(Xem: 6018)
Có những niềm tin gây mê lầm, tội lỗi, gieo tai họa cho chính những người mang niềm tin đó mà họ không hay không biết, hoặc gieo tai họa lên nhiều người...
(Xem: 5899)
Theo kinh Lăng-già, Bồ-tát vì muốn độ tất cả chúng sanh đạt đến Niết-bàn nên phát nguyện ở lại thế giới nhiều khổ đau này để làm lợi ích cho chúng sanh.
(Xem: 6586)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5494)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5570)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 8090)
Mười nghiệp lành không những ngăn giữ chúng sanh khỏi bị đọa lạc vào bốn con đường đau khổ, mà còn mở cánh cửa thênh thang hạnh phúc an vui của phước báu nhân thiên sang cả.
(Xem: 6148)
Theo tâm lýkinh nghiệm, việc chọn lựa một tông phái để theo, phần lớn tùy thuộc vào sở thích và môi trường sinh sống của từng người.
(Xem: 5729)
Tất cả các hệ thống giáo lý phong phú của đạo Phật chỉ có một mục đích duy nhất là trình bày phương pháp và đường lối giải thoát,
(Xem: 8878)
Một người đã tin ở luật nhân quả trong đời hiện tại thì cũng phải tin ở luật nhân quả các đời quá khứ, và vị lai.
(Xem: 6534)
Thực tế cho chúng ta thấy, người học đạo thì nhiều, nhưng để sửa tâm tánh thì không bao nhiêu, đó là kết quả do việc không chịu lắng nghe.
(Xem: 5889)
"Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyền thuộc, là nơi nương tựa" .
(Xem: 5792)
Ngày nay phong trào nghiên cứu Phật học không còn bị thu hẹp trong giới Phật giáo mà đã phổ biến vào mọi tầng lớp của xã hội, không phần biệt Tôn giáo.
(Xem: 5295)
Học Phật là học con đường trở về với chân tâm, với Phật tánh—vốn hàm tàng nơi chính mình và tất cả chúng sinh.
(Xem: 6733)
Phật giáo nguyên thủy, xuất phát từ miền nam Ấn Độ, rồi được truyền sang Tích Lan, từ Tích Lan truyền qua Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào...
(Xem: 6956)
Sám hối không có nghĩa là hết tội nhưng nó có mãnh lực làm cho tâm mình thanh thản, nhẹ nhàng vì vậy nó giúp ngăn hay chận bớt những ác nghiệp mà mình đã tạo ra.
(Xem: 11085)
Tứ đếgiáo nghĩa cơ bản dùng để giải thích mọi hiện tượng nhân sinh vũ trụ được quy nạp từ thập nhị nhân duyên, là con đường trung đạo duy nhất giải thoát sinh tử luân hồi.
(Xem: 8046)
“Những Điều Phật Đã Dạy” là một trong những quyển sách nói về Phật học bán chạy nhất ở các nước phương Tây, được dịch ra nhiều thứ tiếng...
(Xem: 6064)
Tham sống sợ chết, đó là sự thật của người đời. Thế nhưng tại sao lại giết hại, cắt đứt sự sống của chúng sanh khác?
(Xem: 5418)
Theo nguyên tắc chung, tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗi người.
(Xem: 7073)
Quan niệm về cái gọi là "đời cha ăn mặn đời con khát nước" cho rằng có một cái gì vô hình lưu truyền cái nhân xấu do đời cha tạo ra và chuyển giao cái quả xấu do nhân xấu mang lại cho con cái.
(Xem: 6008)
Học Phật không phải chỉ biết được lời Phật dạy, biết qua kiến thức suông để đàm luận, lý luận, mà cần phải thực tập, áp dụng vào cuộc sống của mỗi người trong sự nghe thấy, tư duy và hành động.
(Xem: 6444)
Trong Phật Pháp, đức Phật đã chỉ sẵn một phương pháp, một nghệ thuật hay còn gọi là một bí quyết để có một đời sống hạnh phúc, đó là gìn giữ năm giới.
(Xem: 21100)
Vô thườngtính chất căn bản của đời sống; tất cả mọi sự vật sinh ra có điều kiện đều có tính chất của bốn giai đoạn “thành, trụ, hoại, diệt”
(Xem: 5833)
Mỉm một nụ cười, trở về với một hơi thở, bước một bước chân thảnh thơi... cũng có thể là những phép lạ giữa một cuộc sống căng thẳng và quá bận rộn.
(Xem: 7190)
Về phương diện đạo lý, Phật giáo cao hơn các hệ thống đạo đức khác, nhưng đạo đức chỉ là bước đầu chứ không phải cứu cánh của Phật giáo.
(Xem: 8622)
Bát Chánh Đạogiáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo.
(Xem: 6900)
Chữ Không của Bát Nhã đứng vững là dựa trên lý nhân duyên, nếu lý nhân duyênchân lý thì chữ Không cũng sẽ là chân lý.
(Xem: 7757)
Đây là 4 pháp, 4 nguyên tắc sống mà tiền thân chư Phật, tức chư Bồ-tát thường áp dụng để nhiếp hóa, cảm hóa chúng sanh...
(Xem: 5402)
Có những người sinh trưởng ở những nơi mà niềm tin về tái sinh là một thành phần trong nền văn hóa của họ.
(Xem: 18662)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14471)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13637)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13585)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11879)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13303)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13712)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13974)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13285)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15062)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16200)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant