Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sơ Lược Tiểu Sử Tác Giả

10 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 13471)
Sơ Lược Tiểu Sử Tác Giả

PHẬT HỌC THƯỜNG THỨC

Tâm Minh Lê Đình Thám

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ TÁC GIẢ

TÂM MINH LÊ ĐÌNH THÁM

blankBác sĩ Lê Đình Thám sanh năm 1897 tại làng Đồng Mỹ (Phú Mỹ), tổng Phú Khương, phủ Đoeẹn Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Bác sĩthứ nam của cụ Lê Đĩnh (làm quan dước triều Tự Đức với chức Đông các điện Đại học sĩ sung chức Binh bộ thượng thư) và mẹ là cụ bà Phan Thị Hiệu (kế thất).

I. ĐƯỜNG ĐỜI

Thời thơ ấu, Bác sĩ cùng anh là Lê Đình Dương (sau này là Đông Dương y sĩ) đã trực tiếp học chữ Hán với thân phụ. Cả hai anh em đều thông minh xuất chúng ngay từ thuở còn thơ.

Lớn lên, Bác sĩ theo học ở các trường Pháp – Việt. Trong những năm còn là học sinh hay sinh viên, Bác sĩ đã được cảm tình của cả thầy và bạn, luôn luôn giành vị thứ hàng đầu trong các kỳ thi tốt nghiệp cuối cấp.

Bác sĩ tốt nghiệp Y sĩ Đông Dương (Thủ khoa) tại Hà Nội năm 1916 và đỗ Y khoa Bác sĩ ngạch Pháp quốc tại Y khoa Đại học đường Hà Nội năm 1930.

Bác sĩ ra trường (1916) đúng vào lúc phong trào Duy Tân khởi nghĩa bị thất bại, bào huynh là y sĩ Lê Đình Dương bị Pháp bắt đày lên Ban Mê Thuột và mất tại đó. Bác sĩ bị tình nghi và luôn luôn bị theo dõi. Trong thời gian này, Bác sĩ còn nghiên cứu thêm về triết học Động phương như Nho, Lão, Phật,…

Năm 1926, trong lúc đang phụ trách y sĩ điều trị tại bệnh viện Hội An (Quảng Nam), Bác sĩ được tin cụ Phan Chu Trinh mất. Bác sĩ cùng những người yêu nước chống Pháp thời bấy giờ đã làm lễ truy điệu trọng thể và chịu tang nhà chí sĩ yêu nước. Thực dân Pháp đã thuyên chuyển Bác sĩ ra Hà Tĩnh, và sau đó ít lâu, lại thuyên chuyển về Huế đảm trách y sĩ trưởng Viện bào chế và vi trùng học Louis Pasteur. Ở đây, Bác sĩ đã cộng tác với Bác sĩ Normet (Giám đốc Y tế Trung kỳ) phát minh ra sérum Normet và mấy dược phẩm có giá trị khác. Trong thời gian này, Bác sĩ lên chùa Trúc Lâm, cách kinh đô Huế khoảng 12 km, để học đạo với Hòa thượng trụ trì ở đây là ngài Giác Tiên. Sau khi nhận chân được giáo lý cao thâm của đạo Phật, Bác sĩ đã chuyển hướng đời mình: Phát nguyện Qui y Tam bảo, trường trai trong những ngày còn lại của đời mình, quyết tâm nghiên cứu học hỏi kinh điểm Phật giáo để hoằng hóa độ sanh. Bác sĩ đã được Hòa Thượng Giác Tiên làm lễ thọ Tam qui Ngũ giới và đặt pháp danhTâm Minh.

 

II. ĐƯỜNG ĐẠO

Năm 1929 – 1933, Bác sĩ thọ giáo với Hòa thượng phướng Huệ (chùa Thập Tháp, Bình Định). Nghiên cứu các bài giảng của ngài Tái Hư đạo sư ở Trung Hoa về cách thức tổ chức Phật giáo, Bác sĩ đã đệ đạt ý kiến của mình lên quí Hòa thượng Phước Huệ, Giác Tiên, Giác Nhiên, Tịnh Khiết và được các Ngài chấp thuận. Từ đó Hội An Nam Phật học ra đời, do các vị tôn túc hòa thượngcư sĩ tiên tiến đứng ra chịu trách nhiệm gánh vác công cuộc hoằng dương Chánh pháp. Trụ trở đầu tiên đặt ở chùa Trúc Lâm do Bác sĩ làm Hội trưởng và các tôn túc Hòa thượng nằm trong Ban Chứng MinhCố vấn cho Hội. Sau đó, Hội dời trụ sở về chùa Từ Đàm (mới được xây dựng lại) và bắt đầu truyền đạo với nhiều hình thức mới do sáng kiến và công lao hàng đầu của Bác sĩ:

Thuyết pháp thường kỳ cho tín đồ nghe tại chùa Từ Đàm và Từ Quang.

- Mở trường đào tạo Tăng tài từ sơ đẳng đến cao đẳng Phật học.

Thành lập các Tỉnh hội, Chi hội, Khuôn hội để gánh vác trách nhiệm hoằng dương Chánh pháp khắp các tỉnh miền Trung.

Thành lập đoàn Thanh niên Phật học Đức dục, các Gia đình Phật hóa phổ.

- Xuất bản tờ báo Phật giáo (Nguyệt san Viên Âm).

Xây dựng Đại tòng lâm tại Kim Sơn (Huế).

Từ năm 1934 đến 1945 là những năm hoàn chỉnh các tổ chức Phật giáo và công cuộc đào tạo Tăng-tài. Kết quả của những năm tháng mà Bác sĩ đã đóng góp mãi mãi được ghi nhớ: Một thế hệ Tăng-sĩ tài ba đã nở rộ (trong đó có một số hiện nay đang giữ những nhiệm vụ trọng yếu trong Giáo hội); một giới cư sĩ Phật tử thuần thành, có thực tu thực học, trợ thủ đắc lực cho giới Tăng-già trong công cuộc hoằng dương chánh pháp.

 

III. ĐỜI ĐẠO HÀI HÒA

Mùa thu năm 1946, theo tiếng gọi chống thực dân Pháp cứu nước, Bác sĩ cùng gia đình rời khỏi Huế vào chiến khu tham gia kháng chiến chống Pháp đồng thời cũng tiếp tục làm Phật sự tại địa phương (Liên khu V). Sau khi công cuộc chống thực dân Pháp thắng lợi, Bác sĩ về thủ đô Hà Nội và được mời giữ chức Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới của Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Hòa bình thế giới, góp phần thắt chặt tình hữu nghị giữa nhân dân các nước, gìn giữ hòa bình. Cũng trong thời gian này, Bác sĩ được bầu làm Phó Hội trưởng Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam tại thủ đô Hà Nội. Ngoài những giờ làm việc cho xã hội, Bác sĩ thường đến chùa Quán sứ để dịch kinhgiảng Pháp cho Tăng, Ni và Phật tử. Mặc dù, lúc ấy đất nước ta đang bị chia cắt làm hai miền Nam, Bắc, Bác sĩ vẫn vun vén mối quan hệ đạo tình giữa Phật giáo miền Nam và Phật giáo miền Bắc. Một bằng chứng cụ thể là trong Đại hội Phật giáo thế giới họp tại Ấn Độ năm 1957, Bác sĩ đã vận động để cho hai phái đoàn Phật giáo miền Bắc và miền Nam nhập làm một phái đoàn Phật giáo Việt Nam và bầu Hòa thượng Huệ Quang làm trưởng đoàn.

Sau những năm tháng tận tụy phục vụ đắc lực cho đạo pháo và dân tộc, Bác sĩ đã bình thản ra đi vào 10 giờ sáng ngày 23-4-1969 (nhằm 7.3 ÂL) tại Hà Nội.

IV. MẤY CẢM NGHĨ CỦA NGƯỜI CHÉP TIỂU SỬ VỀ CUỘC ĐỜI CỦA BÁC SĨ TÂM MINH LÊ ĐÌNH THÁM.

1. Nguyên nhân gì đã đưa Bác sĩ Lê Đình Thám đến với đạo Phật?

Trong các bài viết về tiểu sử BS. Lê Đình Thám, thường thấy có nói đến một chi tiết được xem nhưnguyên nhân chính đã thu hút Bác sĩ Lên Đình Thám đến với đạo Phật. Đó là bài kệ của tổ Huệ Năng. Câu chuyện được kể như sau: Năm 1926, trong thời gian công tác tại bệnh viện Hội An (Quảng Nam), một hôm đi viếng cảnh chùa Non Nước (Đà Nẵng). Bác sĩ tình cờ thấy trên vách chùa có ghi bài kệ của tổ Huệ Năng (“Bồ đề bổn vô thọ, Minh cảnh diệc phi đài, Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạn trần ai”). Bài kệ đã đập mạnh vào tâm trí Bác sĩ, ghi một ấn tượng sâu sắc khá phai mờ. Hai năm sau(1928), khi được thuyên chuyển về làm y sĩ trưởng Viện bào chế và vi trùng học Louis Pasteur tại Huế, nhân mội hôm đi tham quan chùa Trúc Lâm, Bác sĩ đã yết kiến Hòa thượng Giác Tiên và được Hòa thượng khai ngộ cho về ý nghĩa thâm sâu của bài kệ. Từ đó, Bác sĩ phát Bồ-đề tâm, xin quy y Tam bảo và nhận Hòa thượng Giác Tiên làm bổn sư.

Chúng tôi không phủ nhận ý nghĩa thâm sâu của bài kệ của tổ Huệ Năng, cũng không phủ nhận cái ảnh hưởng có mức độ của bài kệ trong tâm hồn của Bác sĩ. Nhưng cho rằng bài kệnguyên nhân chính thúc đẩy Bác sĩ đến với đạo Phật thì chưa thỏa đáng. Chúng ta thử đặt một giả thiết ngược lại: Nếu không tình cờ đọc được bài kệ ấy trên vách chùa Non Nước, nếu không có cơ may gặp được Hòa thượng Giác Tiên giải thích cho Bác sĩ cái ý nghĩa thâm sâu của bài kệ thì Bác sĩ sẽ không đến với Phật, để trở thành một trụ cột chính của phong trào Chấn hưng Phật giáo của miền Trung, và đồng thời, của cả nước chăng? Chắc chắn một giả thiết như vậy không thể đứng vững được. Chúng tôi có thể khẳng định mà không sợ sai lầm rằng, dù có hay không có bài kệ của tổ Huệ Năng, con đường tất yếu mà Bác sĩ phải chọn để đi là con đường đến với đạo Phật. Và để có được sự khẳng định này, chúng tôi đã căn cứ trên nhiều yếu tố cụ thể: bản thângia đình của Bác sĩ, hoàn cảnh xã hội và giai đoạn lịch sử của đất nước bấy giờ.

Đọc tiểu sử của Bác sĩ, chúng ta nhận thấy Bác sĩ đã hưởng được nhiều thuận lợi, may mắn trong đời mà ít người có được: Một dung mạo khôi ngô dễ mến, một nền học vấn quán thông cả Đông và Tây phương, một địa vị tri thức hàng đầu trong nền trật tự xã hội mới. Nhưng bên cạnh những thuận lợi quý báu ấy, những khó khăn trở ngại mà Bác sĩ phải đương đầu cũng không phải là ít: Một thân sinh làm đến chức Thượng thư, nhưng đã treo ấn từ quan, nghĩa là đang có “vấn đề”với triều đình; một người anh ruột bị bắt và bị chết trong ngục thất vì chống chế độ thực dân Pháp; một tài năng xuất chúng nhưng không được trọng dụng, vì chính quyền thực dân nghi ngờ; một lòng yêu nước nồng nàn, nhưng phải sống trong cảnh cá chậu chim lồng. Và đây chính là nỗi đau lớn nhất, niềm trăn trở nhức nhối nhất của Bác sĩ. Làm cách nào góp sức cởi cái ách thực dân quá lớn đang đè nặng trên đầu dân tộc? Các cuộc khởi nghĩa vũ trang của những người đi trước đã bị tiêu diệt, các phong trào yêu nước Cần Vương, Văn thân, Đông du đã theo nhau tan rã, nền cai trị của thực dân mỗi ngày mỗi được củng cố, Triều đình Huế chỉ còn là cái bóng mờ nhạt của uy quyền quốc gia.

blankChúng ta có thể hình dung được những ngày chán chường Bác sĩ phải kéo lê cuộc đời tẻ nhạt của mình, như một cuộc lưu đày, sau khi ra trường, qua 7 tỉnh miền Trung, từ Bình Thuận đến Hà Tĩnh. Và khi từ Hà Tĩnh được thuyên chuyển về Huế, thực dân thôi “săn sóc” Bác sĩ và cuộc lưu đày 10 năm đã chấm dứt chăng? Chưa đâu! Đây chỉ là một sự thay đổi chiến thuật: Thực dân không muốn để cho Bác sĩ ở lâu ở Hà Tĩnh – một tỉnh nghèo nhất nước, nhưng cũng sản sinh ra nhiều nhà chí sĩ, cánh mạng nhất nước – là vì sợ Bác sĩ “nhiễm” nặng thêm cái tinh thần yêu nước chống ngoại xâm, nên đưa Bác sĩ về Huế - nơi cũng sản sinh không ít những nhà chí sĩ yêu nước thương nòi, nhưng cũng không ít những “thương nữ bất tri vong quốc hận”, đêm đêm trên dòng “sông Hương nước chảy lờ đờ”, cất lên những giọng ca ai oán, sầu bi làm nhụt chí nam nhi. Trong những năm đầu về Huế, vị Bác sĩ kính mến của chúng ta có lẽ cũng đã có lúc bị mê hoặc bởi những tiếng đàn, tiếng ca réo rắt, ai oán ấy. Nhưng rồi một buổi sáng Chủ nhật, Bác sĩ đã dời dòng sông Hương để đi về phái núi Ngự, tìm đến những ngôi chùa cổ rêu phong để học đạo, rồi sau đó đã xin thọ Tam qui, Ngũ giới với những vị cao tăng thạc đức. Chúng ta có thể hình dung được tiếng cười khoái trá của viên Chánh sở Mật thám Sogny khi được nhân viên báo cáo sự kiện này. Ông ta nói gì trước một tin bất ngờ như vậy? Có thể là một câu nói tương tự như thế này với cái giọng Việt Nam lơ lớ: “Đi tu, rời bỏ tiếng dàn hát trên sông Hương để đi theo tiếng chuông tiếng mõ sau núi Ngự? Tốt thôi, cứ để cho anh ta tự do đi chùa!”. Đối với viên mật thám vô cùng quỷ quyệt này, Bác sĩ lúc bấy giờ là một “anh hùng đã thấm mệt”- nói nôm na là đã “hết xài”. Nhưng đối với Bác sĩ, đây là giai đoạn khởi đầu của một cuộc đờiý nghĩa. Bác sĩ đến với Phật giáo không phải là để tìm sự thảnh thơi mà chính là để thực hiện tấm lòng yêu nước thiết tha của mình, bằng cách trở về nguồn, tìm lại những tinh coa của nền văn hóa truyền thống dân tộc, một nền văn hóa chịu ảnh hưởng sâu đậm của đạo Phật, đạo của Từ biTrí tuệ, Bình đẳng và Vị tha… Qua cái nhìn chính xác và sâu sắc của Bác sĩ, đạo Phật có một giá trị nhân bản và một tiềm năng rất lớn, nếu biết khai thác và cải cách cho thích hợp với thời đại mới, thì sẽ cống hiến cho đời nhiều chất liệu quí báu để xây dựng con ngườixã hội tốt đẹp. Nắm vững chủ trương đúng đắn ấy, Bác sĩ đã tập hợp và huy động được những đồng tâm đồng chí trong giới Tăng-ni và Phật tử có tâm huyết bắt tay vào phong trào Chấn hưng Phật giáo. Và từ đó, đạo Phật Việt Nam đã có một sắc thái mới mẻ, trong sáng hơn. (Hình bên trên: tượng BS. Tâm Minh đặt tại khuôn viên chùa Từ Đàm, Huế)

2. Những yếu tố gì trong con người của Bác sĩ Lê Đình Thám đã đưa Bác sĩ thành công trong công cuộc Chấn hưng Phật giáo?

Có một lý tưởng cao đẹp đã là khó, thực hiện thành công lý tưởng cao đẹp ấy lại còn khó hơn. Hai cái khó ấy, Bác sĩ đã vượt qua không mấy khó khăn. Trước tiên, là nhờ trí tuệ thông minh vô cùng nhạy bén của Bác sĩ. Thứ đến, là có một nền học vấn sâu rộng vững chắc quán xuyết cả Đông Tây (như chúng ta đã thấy ở phần trên), cộng thêm với cái đức tính say mê tìm tòi, hiểu biết về nhiều lĩnh vực: Khoa học, triết học, văn chương, nghệ thuật,… Một sự trùng hợp ngộ nghĩnh, không mà như có chuẩn bị trước: Đức Phật thường dạy đệ tử cần phải trau dồi Ngũ minh để giúp đời: Nội minh (tinh thông giáo lý nội điển), Nhân minh (tinh thông phương pháp biện luận), Thanh minh (tinh thông ngôn ngữ), Y phương minh (tinh thông y lý để chữa bệnh), Công xảo minh (tinh thông nghề nghiệp). Trong năm cái này, Bác sĩ có đủ cả năm và đã sử dụng một cách thành thạo xuất sắc, đạt hiệu quả cao, không ai sánh kịp.

Nhưng nếu chỉ có trí tuệtài năng, thông minhkiến thức thì chưa đủ để trở thành một nhà lãnh đạo lớn nói chung, và của Phật giáo nói riêng.

Bác sĩ, có một đức tánh quý báu nhất, đã đưa Bác sĩ đến thành công, là sự quên mình vì công việc chung. Khi bắt tay vào một công việc gì, Bác sĩ tận tụy hết mình, không quản khó khăn mệt nhọc, không tiếc sức khỏe, thời gian, tiền bạc, chỉ mong sao cho công việc được viên thành. Vì không chỉ thấy có mình, nêm Bác sĩ đã dễ dàng thông cảm, hiểu thấu tâm tư, nguyện vọng, sở trường sở đoản của người khác và từ sự hiểu biết đó, dành cho họ một chỗ đứng thích nghi, một công tác thích hợp với khả năng của mỗi người, mỗi giới trong cái công trường rộng lớn của xã hội.

Chúng ta không thể không ngạc nhiênvô cùng thán phục Bác sĩ, khi thấy Bác sĩ đã động viên được không những giới đồng liêu tân học, mà cả giới cựu học thâm Nho, không những giới tưmà cả giới Tăng-già, từ các bậc đại lão Hòa thượng cho đến cháu thanh, thiếu, đồng niền, mọi người hăng hái tham gia vào phong trào Chấn hưng Phật giáo. Bác sĩ đã có một sức thu hút rất lớn, đã tập họp được các giới đồng bào đến với Phật giáo, là do Bác sĩ đã thể hiện được đức tánh Vô ngã, Vị tha.

Cuộc đời Bác sĩ là một tấm gương sáng cho Phật tử chúng ta cùng soi chung.

 

Tp. Hồ Chí Minh, ngày lễ Phật Đản

PL.2535 (28-5-1991)

Võ Đình Cường


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10348)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12233)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15361)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16650)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12253)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11524)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14320)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24664)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10728)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12527)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10437)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12384)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11696)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12081)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13046)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11487)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17489)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21483)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10710)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19325)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12456)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26104)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14423)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13760)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16890)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17636)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13181)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12560)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11649)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11660)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20521)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19056)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19647)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18734)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15096)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15086)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14028)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15553)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14589)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15899)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12920)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18498)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15813)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11120)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53745)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13038)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16612)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15474)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 20002)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15606)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15395)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15201)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10439)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20433)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15557)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13086)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20289)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13331)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29054)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11759)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant