Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mười Bài Kinh Về Tuệ Giác Siêu Việt Của Tỳ-kheo-ni Thời Phật

17 Tháng Ba 201606:55(Xem: 12713)
Mười Bài Kinh Về Tuệ Giác Siêu Việt Của Tỳ-kheo-ni Thời Phật
MƯỜI BÀI KINH 
VỀ TUỆ GIÁC SIÊU VIỆT CỦA TỲ-KHEO-NI THỜI PHẬT 

Thích nữ Tịnh Quang trích dịch từ Samyutta Nikaya (kinh Tương Ưng Bộ)

Mười Bài Kinh Về Tuệ Giác Siêu Việt Của Tỳ-kheo-ni Thời Phật

 

Samyutta Nikaya V.1
Kinh Avalika 

Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Khi Tỳ-kheo-ni đi khất thực ở thành Xá Vệtrở về, sau bữa thọ trai của mình, Tỳ-kheo-ni đi đến vườn cây của ông Cấp-Cô-Độc để nghỉ vào ban ngày. Khi vào sâu trong vườn cây Cấp-Cô-Độc, Tỳ-kheo-ni ngồi xuống dưới một gốc cây để thiền quán.

Bấy giờ có một Ác Ma, muốn khuấy động nỗi sợ hãi, khiếp đảm, và khủng bố Tỳ-kheo-ni, muốn làm cho Tỳ-kheo-ni này thoát khỏi sự yên tĩnh, đến gần và nói với Tỳ-kheo-ni trong những câu này:

"Không có sự  thoát ly

Ở trong thế giới này

Bạn cố gắng làm gì

với sự cô đơn này?                                                                                                                     

Hãy hưởng thụ dục lạc

Đừng là như ai đó

Rồi sau này hối tiếc."

Lúc này, ý nghĩ chợt đến với Tỳ-kheo-ni Avalika: "Ai vừa đọc câu này - là một con người hay không phải là con người?" Rồi ý nghĩ đã hiện hữu với Tỳ-kheo-ni: "đây là Ác Ma, người đã đọc câu này nhằm khơi dậy nỗi sợ hãi, khiếp đảm, và khủng bố ta, muốn làm cho ta thoát khỏi sự yên tĩnh.”

Khi Tỳ-kheo-ni đã hiểu ra rằng "đây là Ác Ma," Tỳ-kheo-ni trả lời với nó bằng những câu này:

"Có một sự thoát ly

Ở trong thế giới này,

Bởi ta đã đạt được

Với nhận thức rõ ràng.

Ngươi chính là Ma quỉ

Quyến thuộc của thất niệm

Chẳng có hiểu biết gì.

Các cảm thọ dục lạc

Cũng như kiếm và giáo

Các uẩn cũng như thế

Là khối đao của chúng

Dục lạc mà ngươi nói

Chẳng gì vui với ta.”

Thế rồi Ác Ma buồn rầuthất vọng khi nhận ra rằng, "Tỳ-kheo-ni Avalika biết ta" bèn biến mất ngay.

Bình: Hạnh phúc của thế gian là được làm bằng cảm thọ dục lạc: niềm vui từ sự ham muốn, ước muốn và được hưởng thụ. Người xuất gia với lý tưởng thoát ly dục lạc, sống đời sống cô đơn là một hành động và chí nguyện khác thường khiến cho những kẻ bàng quan đặt nghi vấn nhất là đối với những vị xuất gia trẻ tuổi, có dung mạo; cũng không ít người nghĩ rằng họ điên rồ và sẽ hối tiếc.

Bài kinh trên đã cho chúng ta thấy được nhận thức rõ ràng, chánh niệm tuyệt vời của Tỳ-kheo-ni Avalika với sự thoát ly dục lạc (tài, sắc, danh, thực và thùy…), những thứ cám dỗ ngọt ngào của trần gian, và làm thế nào mà sư cô Avalika có thể thoát ly được chúng? Đối với con mắt phàm tình thì những thứ dục lạc ấy là hương vị của lạc thú, nhưng đối với người xuất gia thì nó như kiếm và giáo, có thể giết chết con người bất kỳ lúc nào.

Một đời, người ta đuổi theo tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ sướng…nhưng mấy ai được vuông tròn tất cả mộng ước đó. Giả sử có được tiền tài chưa chắc hết khổ lo lắng, có được sắc đẹp cũng không thể cứ còn mãi, có được danh vọng chưa chắc hài lòng và được yên, có được ăn ngon thì phải cực khổ hoặc tạo nghiệp mà không phải cứ ăn được ngon mãi. Có được chỗ ngủ cao sang chưa chắc ngủ được mà có ngủ được chưa chắc không gặp mộng dữ v.v…Chưa nói đến những người gặp phải tai ương cũng vì khát khao, đua đòi ngũ dục. Trong kinh Phật dạy: “Người tham mê dục lạc như liếm giọt mật trên đầu dao,” vừa có cảm khoái cũng là lúc bị đứt lưỡi. Nên Sư cô Avalika nói rằng chúng như kiếm và giáo, chỉ vừa nghĩ tưởng đến đã khiến tâm hồn chúng ta trở nên đau đớn.

Ngoài năm dục lạc thô phù thì năm uẩn (tích tụ, che mờ chân tánh): Sắc (Thanh, hương, vị, xúc, pháp) uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn còn dễ sợ hơn cả năm dục, chúng như một khối đao, khó mà thoát khỏi sự nguy hiểm từ chúng nếu chúng ta không có chánh niệm.Vì sao chúng như một khối đao? Ví dụ, khi mắt chúng ta tiếp xúc với sắc, tai chúng ta nghe tiếng…nếu chúng ta bị thất niệm thì những cảm giác yêu ghét…bên trong chúng ta trỗi dậy, rồi những niệm tưởng, tâm hành, phân biệt lôi kéo chúng ta tạo ác nghiệp, dù không tạo nghiệp thì cũng vọng tưởng ray rức không yên; hầu hết hoạn nạn, tai ương, đau khổ của con người đều do tâm nô lệ các trần cảnh

Thực tập chánh niệm là nhìn rõ năm dục - uẩn, không bị những thất niệm về chúng sai sử tâm, che mờ tâm. Danh lợi sắc dục của trần gian dù có ngon ngọt cỡ nào cũng chỉ là vọng tưởng, không đáng để cho chúng ta lao đầu vào, theo đuổi chúng, hy sinh vì chúng. Khi chánh niệm hiện diện ta mới thấy được rằng chúng là Ác ma, là đao kiếm và thấy rõ những nguy hiểm ngay khi tâm vừa khởi tưởng giúp cho người xuất gia biết dừng lại để tiếp tục vận hành tâm đi đúng hướng. Tu tập quán chiếu thuần thục giúp cho hành giả nhận diện rằng “thấy sắc nghe thanh như trồng hoa trên đá, thấy lợi danh…như bụi rơi trong mắt (ngộ sắc ngộ thanh như thạch thượng tài hoa/kiến lợi kiến danh như nhãn trung trước tiết.” (Thiền sư Phù Dung Đạo Giai), đó là ý nghĩa thoát ly, có an lạctự do thực sự đối với người xuất gia khi đối đầu với trần cảnh mà không bị chúng tác động được bằng cái thấy tuệ giác, hiểu rõ bản chất của chúng như thế nào.

Samyutta Nikaya V.2
Kinh Soma 

Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Soma khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Khi Tỳ-kheo-ni đi khất thực ở thành Xá Vệtrở về, sau bữa thọ trai của mình, Tỳ-kheo-ni đi đến vườn cây của ông Cấp-Cô-Độc để nghỉ vào ban ngày. Khi vào sâu trong vườn cây Cấp-Cô-Độc, Tỳ-kheo-ni ngồi xuống dưới một gốc cây để thiền quán.

Bấy giờ có một Ác Ma, muốn khuấy động nỗi sợ hãi, khiếp đảm, và khủng bố Tỳ-kheo-ni, muốn làm cho Tỳ-kheo-ni này tán tâm, đến gần và nói với Tỳ-kheo-ni trong những câu này:

"Điều đó chỉ đạt được

Bởi  những người hiền triết

Nơi rất khó tiếp cận

Phụ nữ không thể đạt

Với nhận thức thấp kém.

Lúc này, ý nghĩ chợt đến với Tỳ-kheo-ni Soma: "Ai vừa đọc câu này – là một con người hay không phải là con người?" Rồi ý nghĩ đã hiện hữu với Tỳ-kheo-ni: "đây là Ác Ma, người đã đọc câu này nhằm khơi dậy nỗi sợ hãi, khiếp đảm, và khủng bố ta, muốn làm cho ta thoát khỏi sự thiền định.”

Khi Tỳ-kheo-ni đã hiểu ra rằng "đây là Ác Ma," Tỳ-kheo-ni trả lời với nó bằng những câu này:

"Có gì là khác biệt

Với người nữ tu tập

khi tâm khéo tập trung,

khi trí tuệ tiến khai,

Thấy rõ ràng, đúng đắn

Vào bên trong Phật pháp.

Bất kỳ ai suy nghĩ

‘Tôi là một phụ nữ'

Hay 'một người đàn ông'

Hoặc 'Tôi là gì đó?'

Thì kẻ ấy chính là

Đáng danh xưng Ác ma.”

Thế rồi Ác Ma buồn rầuthất vọng khi nhận ra rằng, "Tỳ-kheo-ni Soma Avalika biết ta" bèn biến mất ngay.

Bình: Vào thời Phật sự phân biệt đối xử với phụ nữẤn Độ khá cao; nữ giới chỉ có trách nhiệm sinh đẻ, nuôi con để duy trì nòi giống; nữ giới thiếu sự giáo dục và văn hóa, ngoài việc phục vụ nam giới, họ không thể bước vào hàng ngũ Đạo sĩ, Bà-la-môn - giai cấp giáo sĩ cao nhất trong bốn giai cấp Ấn Độ thời ấy.Việc chấp nhận nữ giới (và những thành phần giai cấp thấp nhất của xã hội) xuất gia vào hàng ngũ Tăng nhơn là một cuộc cách mạng lớn của Đức Phật

Một Tỳ-kheo-ni ngồi thiền quán như các Đạo sĩ là một việc lạ. Hàng ngoại đạo không tin rằng phụ nữ xưa nay với sự  hiểu biết thấp kém lại có thế tiếp cận, đạt được tư duy như các Hiền triết, các Đạo sĩ Ấn độ, dẫu có tinh tấn tu tập cũng vô ích.

Cái thấy của Tỳ-kheo-Ni Soma là cái thấy bằng công phu tu tập, không phải cái thấy bằng sự phân biệt, tập quán của thế gian. Theo sư cô dù nam hay nữ nếu người ta khéo, giỏi tu tập, tâm có chánh niệm, chánh định thì đều phát triển trí tuệ giải thoát như nhau. Nếu ai đó cho rằng cô ta là thuộc tính (sex) đàn bà, đàn ông, hay bất kỳ giống nào đều là Tà niệm, là Ác ma.

Trong Giáo pháp Phật, khi tu tậphành giả khởi niệm rằng ‘ta có những thuộc tính, bản chất của đàn ông, ta có những thuộc tính, bản chất của đàn bà…’ là hành giả đang bám chặt vào những thuộc tính và bản chất ấy, như thế thân tâm khó có thể an lạc, tự tại. Dù nam hay nữ thì cũng là tướng của vô thường, khổ và vô ngã. Thiền quán là để đạt được trí tuệ, tâm không còn bị kẹt bởi các giả tướng, đó là cái thấy chân thật, cái thấy từ sự giải thoát bên trong, cũng là mục tiêu chính của lý tưởng giải thoát. Kinh Kim Cương nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng, tắc kiến Như lai.”

Samyutta Nikaya V.3
Kinh Gotami 

Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Kisa Gotami khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Khi Tỳ-kheo-ni đi khất thực ở thành Xá Vệtrở về, sau bữa thọ trai của mình, Tỳ-kheo-ni đi đến vườn cây của ông Cấp-Cô-Độc để nghỉ vào ban ngày. Khi vào sâu trong vườn cây Cấp-Cô-Độc, Tỳ-kheo-ni ngồi xuống dưới một gốc cây để thiền quán.

Bấy giờ có một Ác Ma, muốn khuấy động nỗi sợ hãi, khiếp đảm, và khủng bố Tỳ-kheo-ni, muốn làm cho Tỳ-kheo-ni này tán tâm, đến gần và nói với Tỳ-kheo-ni trong những câu này:

“Sao con nàng bị chết

Nàng ngồi đây lẻ loi

Sao mắt nàng ngấn lệ

Trong cô đơn như thế

Trầm ngâm ở giữa rừng

Để tìm đàn ông chăng?”

Lúc này, ý nghĩ chợt đến với Tỳ-kheo-ni Kisa Gotami: "Ai vừa đọc câu này – là một con người hay không phải là con người?" Rồi ý nghĩ đã hiện hữu với Tỳ-kheo-ni: "đây là Ác Ma, người đã đọc câu này nhằm khơi dậy nỗi sợ hãi, khiếp đảm, và khủng bố ta, muốn làm cho ta thoát khỏi sự thiền định.”

Khi Tỳ-kheo-ni đã hiểu ra rằng "đây là Ác Ma," Tỳ-kheo-ni trả lời với nó bằng những câu này:

“Con chết là quá khứ

Đàn ông đã đoạn tuyệt

Ta chẳng có gì buồn

Chẳng có gì để khóc

Cũng chẳng sợ gì bạn

Hỷ dục thảy phá hủy

Màng đêm tối vỡ tan

Ta đã chiến thắng được

Đội quân của thần chết

Giải thoát các uế trược

Tâm ta đã an trụ.”

Thế rồi Ác Ma buồn rầuthất vọng khi nhận ra rằng, "Tỳ kheo ni Kisa Gotami biết ta" bèn biến mất ngay.

 

Bình: Trước khi xuất gia, Tỳ-kheo-ni Kisa Gotami thuộc dòng dõi Gotama với Đức Phật. Chồng là một thương gia, bà sinh một đứa con trai khi vừa biết nói thì bị bạo bệnh mà chết. Quá đau khổ rồi điên loạn bà ôm đứa con đã chết của mình vào lòng đi tìm thầy thuốc, danh y để cứu sống con bà nhưng không ai có thể làm được. Bà ôm con đến gặp Phật và để nó dưới chân Ngài mong Ngài cứu sống. Đức Phật xoa dịu bà bằng cách ra điều kiện rằng nếu bà ‘xin cho ngài một nắm hạt cải từ bất kỳ gia đình nào mà chưa có thân nhân chết.’ Bà lặn lội khắp nơi mà không xin được hạt cải nào, vì nhà nào cũng có người chết. Thế rồi bà trở về bạch với Đức Phật rằng gia đình nào cũng có người chết và chấp nhận sự thực. Đức Phật nhân đây thuyết về lẽ vô thường, sinh diệt của vạn hữu. Nghe xong bà chứng đắc sơ quả Tu-đà hoàn và xin xuất gia

Bài kinh trên nói về đạo hạnh của một đệ tử xuất gia của Đức Phật là Tỳ-kheo-ni Gotami, cũng giống như những Tăng nhân khác: Buổi sáng đi khất thực, trưa thọ trai, rồi đi vào rừng ngồi tĩnh tọa, thiền quán. Trước khi bắt đầu thiền quán thì thường gặp Ác ma hay vọng tâm xuất hiện như một đối tượng của đề mục quán chiếu. Nhờ tu tập đúng pháp, họ chẳng còn buồn, vui, sợ hãi hay các dục niệm thế gian ngự trị và khống chế được Ác ma.

Sự yên tịnh một mình trong khi tu tập đối với một người xuất gia vốn có một quá khứ đau buồn khiến người ngoài có thể nghĩ rằng người ấy không thể nào quên được quá khứ, hoặc đang đi tìm một điều gì đó để nguôi ngoai sự đau khổ và mất mát lớn lao ấy. Tuy nhiên đối với người xuất gia đã giác ngộ, bất kỳ những gì thuộc về quá khứquá khứ, không thế tác động được thực tại hiện tiền.

Sau một thời gian tinh tấn tu tập, đoạn trừ tất cả lậu hoặc, phá vỡ bóng tối vô minh, Tỳ-kheo-ni Gotami chứng đắc Thánh quả A-la-hán (còn gọi là Bất lai-quả vị cao nhất trong tứ quả Sa-môn), không còn bị cái chết điều động, tâm đã an trụ, giải thoát hoàn toàn những niệm khởi sinh tử của ái dục, lo lắng, sợ hãi và bất an…từng khống chế cô ta.

Samyutta Nikaya V.4
Kinh Vijaya

Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Vijaya khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Khi Tỳ-kheo-ni đi khất thực ở thành Xá Vệtrở về, sau bữa thọ trai của mình, Tỳ-kheo-ni đi đến vườn cây của ông Cấp-Cô-Độc để nghỉ vào ban ngày. Khi vào sâu trong vườn cây Cấp-Cô-Độc, Tỳ-kheo-ni ngồi xuống dưới một gốc cây để thiền quán.

Bấy giờ có một Ác Ma, muốn khuấy động nỗi sợ hãi, khiếp đảm, và khủng bố Tỳ-kheo-ni, muốn làm cho Tỳ-kheo-ni này tán tâm, đến gần và nói với Tỳ-kheo-ni trong những câu này:

“Nàng, một kiều nữ trẻ

Ta là một thanh nam

Này người đẹp ta ơi

Với nhạc điệu ngũ thanh

Hãy cùng nhau hưởng lạc.”

Lúc này, ý nghĩ chợt đến với Tỳ-kheo-ni Vijaya: "Ai vừa đọc câu này – là một con người hay không phải là con người?" Rồi ý nghĩ đã hiện hữu với Tỳ-kheo-ni: "đây là Ác Ma, người đã đọc câu này nhằm khơi dậy nỗi sợ hãi, khiếp đảm, và khủng bố ta, muốn làm cho ta thoát khỏi sự thiền định.”

Khi Tỳ-kheo-ni đã hiểu ra rằng "đây là Ác Ma," Tỳ-kheo-ni trả lời với nó bằng những câu này:

“Sắc, thanh, hương, vị, xúc

Các cảm xúc ngọt ngào

Ta nhường lại Ác ma,

Ta đâu có cần chúng.

Ta nhàm chán xấu hổ

Thân thể bất tịnh này

Đang phân hủy, rã tan.

Khát ái được đoạn tận

Chúng sinh khởi từ sắc

 Ai Không đắm vào sắc

Thể nhập tâm an lạc

Bóng tối diệt hoàn toàn.”

Thế rồi Ác Ma buồn rầuthất vọng khi nhận ra rằng, "Tỳ - kheo - ni Vijaya biết ta" bèn biến mất ngay.

Bình: Trẻ, đẹp là một hạnh phúc và có nhiều lợi thế để lạc hưởng nhịp điệu sắc, thanh (ngũ thanh trong Âm nhạc cổ của Ấn độ (Pentatonic Ragas: 1.Raga Abhogi, 2.Raga Gavati, 3.Raga Bhindabani Sarang, 4.Raga Gujaree Todi, and 5.Raga Bhupali) theo quan điểm thông thường của đa phần, điều này bắt nguồn từ tư duy: chúng sanh do vật chất bốn đại hòa hợp, chết là hết, nên sống phải hưởng thụ dục lạc thỏa mái mà phái Triết học Duy vật (chấp đoạn diệt) của Ajita Kesa Kambalac từ thời cổ đại Ấn độ đã có ảnh hưởng không nhỏ vào quan điểm sống của xã hội

Tuy nhiên, quan điểm Duy vật đoạn diệt cũng là một quan điểm cực đoan, khiến cho con người chạy theo lối sống hưởng thụ dục lạc, buông lung và sa đọa, dẫn đến các tệ nạn đạo đức vì không có một định hướng cho sự yên bình của nội tâm, do đó những hệ lụy đau khổ không phải ít.

Bài kinh trên cho chúng ta thấy được tuệ giác của Sư cô Vijaya, một vị xuất gia vừa trẻ vừa đẹp và không bị quyến rũ bởi những lời đường mậtsắc thanh thế gian. Sư cô Vijaya nhận ra rằng các cảm xúc ngọt ngào của sắc, thanh, hương, vị và xúc là không thật nên Sư cô bỏ tục xuất gia, không màng đến chúng. 

Với pháp tu Bất tịnh quán – là một phép quán đầu tiên trong Tứ niệm xứ quán (quán thân bất tịnh, quán thân vô thường, quán pháp vô ngã, quán thọ thị khồ), và cũng là một trong Ngũ đình tâm quán (quán bất tịnh để đối trị lòng ham muốn sắc dục, quán hơi thở để đối trị tâm tán loạn, quán từ bi để đối trị sân hận, quán nhân duyên để đối trị ngu si, và quán giới phân biệt để đối trị chấp ngã), Tỳ-kheo-ni Vijaya đã đạt được trình độ đoạn tận khát ái về sắc dục khi tuổi còn thanh xuân khi nhận chân rằng thân  mình là cấu uế, bất tịnh, đang trên đường đến già, bệnh và phân hủy theo thời gian, và vì vậy, không có gì bên ngoài lay động được cô ta. 

Thấy rằng tất cả chúng sinh đều sinh từ sắc và bị sắc làm mê hoặc, đồng thời tu tập quán chiếu bản chất giả tạo của thân, dần dần xả ly được tâm tham đắm vào sắc đó là một tiến trình tu tập có kết quả tuyệt vời mà chỉ có những hành giả đệ tử Phật, tu đúng Giáo pháp mới thành tựu được giải thoát từ pháp quán chiếu hợp với căn cơ trình độ của mình.

Samyutta Nikaya V.5
Kinh Uppalavanna 

Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Uppalavanna khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Khi Tỳ-kheo-ni đi khất thực ở thành Xá Vệtrở về, sau bữa thọ trai của mình, Tỳ-kheo-ni đi đến vườn cây của ông Cấp-Cô-Độc để nghỉ vào ban ngày. Khi vào sâu trong vườn cây Cấp-Cô-Độc, Tỳ-kheo-ni ngồi xuống dưới một gốc cây để thiền quán.

Bấy giờ có một Ác Ma, muốn khuấy động nỗi sợ hãi, khiếp đảm, và khủng bố Tỳ-kheo-ni, muốn làm cho Tỳ-kheo-ni này tán tâm, đến gần và nói với Tỳ-kheo-ni trong những câu này:

"Tỳ-kheo-ni đã đến

Dưới cây tala này

Với mùa hoa tuyệt đẹp

Nàng đứng đây một mình

Dưới gốc cây của nó,

Không ai có thể sánh

Vẻ tuyệt đẹp của nàng

Hỡi nàng ngu ngốc kia

Không sợ khuấy nhiễu sao?”

Lúc này, ý nghĩ chợt đến với Tỳ-kheo-ni Uppalavanna: "Ai vừa đọc câu này – là một con người hay không phải là con người?" Rồi ý nghĩ đã hiện hữu với Tỳ-kheo-ni: "đây là Ác Ma, người đã đọc câu này nhằm khơi dậy nỗi sợ hãi, khiếp đảm, và khủng bố ta, muốn làm cho ta thoát khỏi sự thiền định.”

Khi Tỳ-kheo-ni đã hiểu ra rằng "đây là Ác Ma," Tỳ-kheo-ni trả lời với nó bằng những câu này:

 “Trăm ngàn kẻ khuấy nhiễu

Đến với ta như vậy

Ta sẽ không lay động

Dù chỉ một sợi tóc

Ta chẳng thấy lo lắng

Hoặc sợ hãi Ác ma

một mình như vậy

Nơi đây-Ta biến mất

Hay vào bụng của ông

Đứng giữa lông mày ông

Mà ông đâu thấy ta

Ta đã điều phục tâm

Chứng đạt thần túc thông

Thoát khỏi những buộc ràng

Và không sợ hãi ông

Này người bạn ta ơi.”

Thế rồi Ác Ma buồn rầuthất vọng khi nhận ra rằng, "Tỳ-kheo-ni Uppalavanna biết ta" bèn biến mất ngay.

 

Bình: Cũng giống như bài kinh trên. Bài kinh này Tỳ-kheo-ni Uppalavanna cũng bị Ác ma tán tỉnh. Một nữ nhân tuyệt đẹp đứng một mình ở nơi hoang vắng mà không sợ bị đàn ông quấy nhiễu là một việc lạ lùng. Với con mắt của người khác đó là một hành động quá ngu ngốc.

Tuy nhiên Ác ma không ngờ rằng Sư cô này đã chứng được phép Thần túc thông/ṛiddhi viṣaga-jñānaṃ (môt trong 6 phép thần thông (ṣaḍ abhijñāḥ) biểu hiện năng lực trí tuệ siêu việt, tự tại, vô ngại của chư Phật, Bồ tát và A-la-hán: 1.Thiên nhãn thông (divyaṃ-cakṣuḥ-jñānaṃ) 2.Thiên nhĩ thông (divyaṃ-śrotraṃ-jñānaṃ) 3.Thần túc thông (ṛiddhi viṣaga-jñānaṃ) 4.Tha tâm thông (paracitta-jñānaṃ) 5.Túc mệnh thông (purvanivasānusmṛiti-jñānaṃ), và 6.Lậu tận thông (āsravakṣaya-jñānaṃ)) có năng lực siêu việt biến hiện thân hình theo ý muốn; cho nên Sư cô không còn sợ hãi, không ai có thể khuấy nhiễu, lay động, và có thể đi vào bụng, đứng giữa chân mày người khác, hoặc có thể chui xuống biển, biến vào trong mây v.v…mà người khác không có thể thấy được. Theo Giáo pháp, khi nhập chánh định vững vàng, tâm không còn một niệm khởi hành giả đạt được Lục thông vô ngại, tự tại, không có gì có thể chướng ngại được. Đạt được Lục thông cũng có nghĩa rằng hành giả đã hoàn toàn thoát ly vòng sinh tử, luân hồi.

Khi 6 căn tiếp xúc với 6 trần mà tâm chúng ta không còn bị lay động, bị chi phối bởi 6 trần cảnh không còn bị các niệm sinh diệt của trần cảnh khuấy động…cũng có nghĩa là chúng ta đạt được trí tuệ siêu việt bằng pháp chánh niệm. Trong Thiền tông, thần thôngdiệu dụng luôn có mặt trong sinh hoạt rất bình thường khi tâm đâu cảnh đó: Thần thông cập diệu dụng/Vận thủy cập ban sài (Thần thôngdiệu dụng là gánh nước đốn củi…)

Ác ma cũng là tà niệm, vọng niệm; khi chánh niệm có mặt thì chúng ta nhìn thấy vọng mà không theo vọng, không còn bị nó lôi kéo, buộc ràng, không còn sợ hãi nó vì ta làm chủ được nó thì ngay đó nó tự biến mất.

Samyutta Nikaya V.6
Kinh Cala 

Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Cala khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Khi Tỳ-kheo-ni đi khất thực ở thành Xá Vệtrở về, sau bữa thọ trai của mình, Tỳ-kheo-ni đi đến vườn cây của ông Cấp-Cô-Độc để nghỉ vào ban ngày. Khi vào sâu trong vườn cây Cấp-Cô-Độc, Tỳ-kheo-ni ngồi xuống dưới một gốc cây để thiền quán.

Bấy giờ có một Ác Ma, muốn khuấy động nỗi sợ hãi, khiếp đảm, và khủng bố Tỳ-kheo-ni, muốn làm cho Tỳ-kheo-ni này tán tâm, đến gần và nói với Tỳ-kheo-ni trong những câu này:

"Này Tỳ-kheo-ni, nàng không vui thích điều gì?”

“Này bạn, ta không vui thích sanh”

“Sao nàng không thích sanh?

Một người được sanh ra

Hưởng thú vui ái dục

Ai đã thuyết phục nàng

không có vui thích sanh? "

“Những ai được sanh ra

Cũng đều có sự chết

Người nào được sanh ra

Đều phải chịu khổ đau.

Đó là một trói buộc

Một trận đòn, đau khổ

Nên ta không thích sanh

Đức Phật đã dạy ta

Vượt thoát khỏi tái sanh

Đoạn trừ tất cả khổ

An trú trong chân thật

Chúng sanh từ cõi sắc

chúng sanh vô sắc

Nếu không đoạn chấp thủ

Cứ tiếp tục tái sanh.”

Thế rồi Ác Ma buồn rầuthất vọng khi nhận ra rằng, "Tỳ-kheo-ni Cala biết ta" bèn biến mất ngay.

 

Bình: Khi một ai đó vừa bỏ tục xuất gia thì những người thân quen, bạn bè…thường đặt nghi vấn: Cô (thầy) có chuyện gì buồn hay gặp cảnh ngộ gì đó trái ngang, bất mãn… mà chọn con đường xuất gia (?) Đây cũng là trường hợp của Tỳ-kheo-ni Cala khi Ác ma hỏi cô ta rằng có điều gì khiến cô ta không vui thích đối với đời sống.

Tỳ-kheo-ni Cala cũng như đa phần người xuất gia khác, vì hiểu pháp và mến mộ Giáo pháp mà đi xuất gia. Và cô ta trả lời rất thực tế là ‘tôi không thích sanh’. Câu trả lời này thật lạ lẫm! Đối với Ác ma là nhờ có sanh nên mới có được sự thụ hưởng dục lạc sung sướng của cõi trần gian. Vì lý do gì mà ai đó đã thuyết phục cô thay đổi quan niệm sống, đi ngược dòng đời (?)

Sanh tử là một vấn đề đau khổ (dukkha) nghìn đời của nhân sinh, có sanh là có chết. Khi sanh ra phải chịu muôn ngàn đau khổ vì cái thân này (khổ khổ, hoại khổ, hành khổ, ái biệt ly khổ/sinh lão bệnh tử khổ ,oán tằng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ v.v…). Trong bài pháp  Tứ diệu đếhai chân lý đầu tiên mà Đức Phật thuyết là Ngài nói về khổ và Nguyên nhân của nó bắt đầu từ Vô minh với 12 nhân quả trùng trùng của duyên sinh trong mắc xích liên hệ và vần xoay của vòng sinh tử luân hồi. Muốn tháo gỡ nó là phải tháo gỡ Vô minh. Trong Khế kinh Đức Phật dạy: Cái cảnh khổ của con Lừa, Lạc đà chở nặng qua sa mạc, hay cái cảnh khổ của con Rùa mù tìm bộng cây nổi trong biển cả…cũng chưa gọi là cảnh khổ. Vô minh mới là nỗi khổ lớn nhất.”

Tỳ-kheo-ni Cala không thích (sợ hãi) sanh vì biết rằng có sanh là chịu khổ, là một sự trói buộc, một trận đòn đau đớn. Và vì muốn thoát ly sanh tử nên cô ta tu học theo Giáo pháp trí tuệ, giác ngộ để tháo gỡ vô minh, an trú trong sự chân thậtchấm dứt sự tái sanh luân hồi đó.

“Tam giới do như hỏa trạch,” ba cõi như nhà lửa,  không phải chỉ có cõi Dục mới hết luân hồi sinh tử, mà cõi Sắc và Vô sắc cũng còn sự tái sanh đau khổ, nóng hừng như lửa đốt vì cònVô minh. Vô minh cũng chính là khát ái, chấp ngã chấp pháp; Giáo pháp Phật có phương pháp và có công năng giúp hành giả diệt trừ tập khí tham chấp nếu hành giả tinh tấn thực tập, dần dần tháo gỡ những nút thắt của những trói buộc từ cái nhìn Vô minh, ngu dại để đạt được trí tuệ Bát nhã, đến bờ giải thoát, chấm dứt sinh tử đau khổ nghìn đời. Đó là lý tưởng tích cực, tối hậu của Tỳ-kheo-ni Cala và của tất cả những ai xuất gia, đệ tử Đức Thế tôn.

Samyutta Nikaya V.7
Kinh Upacala

Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Upacala khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Khi Tỳ-kheo-ni đi khất thực ở thành Xá Vệtrở về, sau bữa thọ trai của mình, Tỳ-kheo-ni đi đến vườn cây của ông Cấp-Cô-Độc để nghỉ vào ban ngày. Khi vào sâu trong vườn cây Cấp-Cô-Độc, Tỳ-kheo-ni ngồi xuống dưới một gốc cây để thiền quán.

Bấy giờ có một Ác Ma, muốn khuấy động nỗi sợ hãi, khiếp đảm, và khủng bố Tỳ-kheo-ni, muốn làm cho Tỳ-kheo-ni này tán tâm, đến gần và nói với Tỳ-kheo-ni trong những câu này:

“Tỳ-kheo-ni, nàng muốn tái sanh ở nơi nào?”

“Này bạn, ta không muốn tái sanh ở nơi nào cả.”

“Chư thiên Tam Thập Tam

Dạ Ma, Đâu Suất Thiên"

Hay cõi Hóa Lạc Thiên

Tha hóa tự tại thiên:

Hãy hướng tâm nàng đến

vui hưởng cảnh này.”

"Chư thiên Tam Thập Tam

Dạ Ma, Đâu Suất Thiên

Hay cõi Hóa Lạc Thiên

Tha Hóa Tự Tại Thiên

Họ đều bị trói buộc 

Với kiết sử ái dục

Và vẫn còn bị đọa

Dưới khống chế của ma

Cả thế giới đang thiêu

Cả thế giới bốc cháy

Cả thế giới đốt nóng

Cả thế giới kích động. 

Không động, không bị thiêu

Người ở đường Trung đạo                     

Chẳng vướng mắc chỗ nào

Nơi ma chẳng đến được

Nơi ấy tâm của ta

Thực sự rất an vui.”                                                                                                                

Thế rồi Ác Ma buồn rầuthất vọng khi nhận ra rằng, "Tỳ-kheo-ni Upacala biết ta" bèn biến mất ngay.


Bình: Sanh từ đâu tới, chết đi về đâu? Đó là nghi vấngiải pháp của các giáo phái Triết học xưa nay. Mở đầu cho một giáo phái Triết học cổ đại Ấn ĐộBà La Môn giáo vào thời đại Veda, căn cứ vào phương diện vũ trụtâm lý mà hình thành thuyết Brahman (Đại ngã) và Atman (Tiểu ngã). Về phương diện tâm lý thì linh hồn bất diệt, nghĩa là khi Atman lìa thể xác thì linh hồn được qui về đấng Brahman (Đại ngã, Phạm thiên). Tiếp theo thời kỳ này là thời kỳ triết học Upanishad (Áo nghĩa thư), chủ trương Phạm-Ngã đồng nhất, đã hình thành khái niệm giải thoát-trí tuệ-luân hồi, và sự chấm dứt luân hồi bằng phương pháp Du Già (Yoga) mới được toàn thiện. Khoảng 600 năm trước kỷ nguyên trở về sau, tư tưởng Ấn Độ tự do phát triển; thế lực chính thống của Bà La Môn giáo ngày một suy yếu, vì thế đã phát sinh ra nhiều tư tưởng triết học mới với lập trường nhân sinh quan và vũ trụ quan. Nhiều lập thuyết về vạn hữu như yếu tố sắc-tâm, không-hữu, tứ đại v.v… trở thành một trào lưu học thuyết bừng nở. Về phương pháp tu hành có phái không chú trọng về tinh thần và chủ trương thân người do tứ đại hợp thành và lập trường chủ nghĩa khoái lạc cho nhục thể làm mục đích bởi chết là hết. Có phái chú trọng đến tinh thần thì luyện thân khắc khổ để mong cầu đời sau được giải thoát…Trong tất cả sáu phái triết học đương thời đều đứng trên lập trường kiến chấp: đoạn kiến, thường kiếnmơ hồ.

Khi Đức Thế tôn xuất hiện, những nghi vấn của con người được Ngài giải thích qua 12 nhân duyên trong vòng ‘Hoặc’, ‘nghiệp’ và ‘ khổ’ cứ làm nhân lẫn nhau gây thành chuỗi luân hồi bất tận. Xuyên qua giáo lý Tứ Diệu đế, Diệt đếĐạo đế như một nguyên tắc của giải pháp, và Diệt đế cũng là Lý tưởng luận và Giải thoát luận của Phật giáo. Diệt đế tức là con đường đã dập tắc hết mọi sự khổ não. Chân tướng của thế giới nầy vốn là bản lai vô ngã; biết được chân tướng vô ngã thì ngã tưởng đoạn diệt, đạt được Niết bàn. Vậy phương pháp nào để chúng ta đạt đến Niết bàn? Đó là con đường Trung đạo.

Khi Ác ma hỏi Tỳ-kheo-ni Upacala muốn tái sanh về nơi nào thì cô ta trả lời rằng không muốn sanh về cõi nào cả. Vì đã có nơi có cõi thì có sanh diệt, có bản ngã, có khổ đau, và có luân hồi. Tuy nhiên Ác ma vẫn chưa hiểu được ý của vị Tỳ-kheo-ni này nên mới gạn hỏi lại rằng có phải cô ta tu tập vì muốn sanh về một trong những cảnh giới như cõi chư thiên Tam Thập Tam (còn gọi là Đao Lợi Thiên-Tavatimsa), cõi Dạ Ma (Yama), cõi Đâu Xuất Đà (Tusita), cõi Hóa Lạc Thiên (Nimmanarati), và cõi Tha Hóa Tự Tại (Paranimmitavasavatti) [các cõi thiên giới trong 28 tầng trời dành cho người có phước báu nhờ tu tập thiện nghiệp] sau khi thân hoại mạng chung? 

Người xuất gia chân chính là đoạn trừ ái dục, kiết sử, nguyên nhân khổ đau. Ý tưởng sanh về một cõi vui thú cũng phát xuất từ tâm tham muốn. Các cảnh thiên giới vui sướng dành cho những ai đầy đủ phước báo, hưởng hết phước thì bị đọa và chuyển sang cảnh khác tương ứng với phước nghiệp. Ý thức rõ về điều này nhờ tu tập đúng Giáo pháp, Tỳ-kheo-ni Upacala trả lời rất trí tuệthuyết phục được Ác ma rằng cô ta chỉ bước đi trên con đường Trung đạo, vô ngã nên chẳng muốn sanh về đâu. Nhờ tinh tấn tu học, sư cô đã giác ngộ rằng cả thế giới đang bị thiêu, bị bốc cháy, bị đốt nóng và bị kích động bởi ái dụckiết sử dẫu là cõi Thiên giới cũng không bảo đảm được sự an vui chân thật.

Không bị thiêu đốt, không bị lay động, không mong cầu, không vướng mắc bất cứ chỗ nào, đó là tuệ giác tu tập tinh thần Trung đạo, Vô ngã, Niết bàn thực tại, và cũng là nơi an ổn, an lạc thực sự mà chỉ những ai tu hành đúng Giáo pháp mới có thế trãi nghiệm.                   

Samyutta Nikaya V.8
Kinh Sisupacala

Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Sisupacala khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Khi Tỳ-kheo-ni đi khất thực ở thành Xá Vệtrở về, sau bữa thọ trai của mình, Tỳ-kheo-ni đi đến vườn cây của ông Cấp-Cô-Độc để nghỉ vào ban ngày. Khi vào sâu trong vườn cây Cấp-Cô-Độc, Tỳ-kheo-ni ngồi xuống dưới một gốc cây để thiền quán.

Bấy giờ có một Ác Ma, muốn khuấy động nỗi sợ hãi, khiếp đảm, và khủng bố Tỳ-kheo-ni, muốn làm cho Tỳ-kheo-ni này tán tâm, đến gần và nói với Tỳ-kheo-ni trong những câu này:

"Tỳ-kheo-ni, nàng thích triết lý của ai?" 

"Này bạn, ta không thích triết lý của ai cả."

"Vì ai nàng tìm cầu

và nàng cạo trọc đầu?

Trông nàng giống người tu

Nhưng không thích triết lý

Sao lang thang ở đây?

Không hiểu nàng thế nào?"

"Những triết gia ngoại đạo

Tin chấp quan điểm mình

Ta không thích lời họ

Họ không có tuệ tri

Để thâm hiểu Giáo pháp.

Chỉ có bậc Giác ngộ

Sinh ở dòng Thích Ca

Người không ai sánh được:

Bậc hoàn toàn chế ngự

Chinh phục mọi ác ma

Đã chiến thắng hết thảy

tự do, tự tại

Chứng pháp nhãn thấy khắp

Đoạn trừ hết nghiệp hoặc

Không còn mọi chấp thủ

Đã giải thoát hoàn toàn

Đó chính là Đức Phật

Đạo sư của ta

Ta thích Giáo pháp Ngài.”                                                                                            

Thế rồi Ác Ma buồn rầuthất vọng khi nhận ra rằng, "Tỳ-kheo-ni Sisupacala biết ta" bèn biến mất ngay.

 

Bình: Trước và ngay thời Phật là giai đoạn nhiều tư tưởngTriết học của tôn giáo Ấn Độ các phát triển; Nổi bật nhất là Sáu Triết học ngoại đạo và 72 kiến chấp tranh nhau hùng cứ và luận chiến như: 1. Không kiến luận của Pùrana kassapa (Phú-lan-na Ca-diếp) chủ trương thuyết ngẫu nhiên, bát bỏ luật nhân-quả, cho rằng tất cả sự khổ vui họa phước của con người, chỉ là ngẫu nhiên mà có, làm lành hoặc dữ cũng không có quả báo. 2. Duy vật luận của Ajita Kesakambilin (A-kỳ-đa Kỳ-xá-khâm-bà-la) cho rằng con người do tứ đại hòa hợp, chết rồi là hết, thân tứ đại lại trả về chất tứ đại, sống là nên là tận hưởng những thú vui vật chất. 3. Định mệnh luận của Makkahi Gosala (Mạt-già-lê Cù-xá-lợi) còn gọi là Tự-nhiên-luận hay Túc-mạng-luận cho rằng tất cả do luật tự nhiên chi phối, không phải ý muốn. Định mệnh chi phối và an bài khổ vui và giải thoát…của con người. 4. Thường kiến luận của Pakkuda Kaccàyana (Bà-phù-đà Ca-chiên-diên) phản đối thuyết Đoạn kiến và lập thuyết Tâm-vật-nhị-nguyên-bất-diệt, cho rằng con người do bảy yếu tố: Địa, thủy, hỏa, phong, khổ, lạc, và sanh mạng hợp thành. Bản chất của bảy yếu tố nầy là thường trụ bất diệt, không vì sự sống chếtsanh diệt theo. 5. Bất khả tri hay Vô cầu luận của Sanjaya Belatthiputta (Tán-nhã-di Tỳ-la-phê-phất) cho rằng đạo quả giải thoát không cần tìm cầu, cứ để trải qua nhiều kiếp luân chuyển, tự nhiên sẽ đến kỳ sự khổ dứt trừ. 6. Kỳ-na luận của Nigantha Nàtaputta (Ni-kiền-đà Nhã-đề-tử), Ông là vị tổ hữu danh đã khai sanh ra Kỳ-Na-giáo cho rằng lý do con người không được giải thoát vì sự trói buột của nghiệp, con người muốn được giải thoát giác ngộ, cần phải diệt trừ nghiệp, bằng cách tu tập khổ hạnh, ép xác… 

Khi Tỳ-kheo-ni Sisupacala trả lời với Ác ma rằng cô ta không thích Triết lý nào cả thì bị Ác ma chất vấn rằng nếu nàng không thích Triết lý thì tại sao cạo trọc đầu, bỏ nhà, ‘lang thang’ trong rừng giống như người tu. Nếu không tìm cầu một điều gì, theo đuổi một Triết lý nào đó mà từ bỏ tất cả đời sống thế tục là câu trả lời mâu thuẫn…và ác ma không hiểu ý Sư cô này như thế nào (?)

Tỳ-kheo-ni Sisupacala giải thích với Ác ma rằng tất cả các Triết lý (trên) đều là ngoại đạo vì không xả ly được phiền não nội tâm, và tất cả cũng không ngoài luận thuyết tin chấp vào quan điểm mình. Sư cô chỉ tin vào Đức Phật, bậc giải thoát hoàn hoàn, chinh phục tất cả tư tưởng ác, đoạn trừ tất cả nghiệp hoặckiến chấp vô minh, hoàn toàntự do, tự tại khi tu tập dưới sự hướng dẫn của Ngài.

Sự thực thì Sư cô cũng đang theo Triết lý là Triết lý Vô ngã, giải thoát; chứ không phải những Triết lý tranh cãi với những kiến chấp cố hữu, không có hiện tại lạc trú, không đáp ứng được nhu cầu giải thoát khổ đau muôn thuở của con người.

Samyutta Nikaya V.9
Kinh Sela 

Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Sela khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Khi Tỳ-kheo-ni đi khất thực ở thành Xá Vệtrở về, sau bữa thọ trai của mình, Tỳ-kheo-ni đi đến vườn cây của ông Cấp-Cô-Độc để nghỉ vào ban ngày. Khi vào sâu trong vườn cây Cấp-Cô-Độc, Tỳ-kheo-ni ngồi xuống dưới một gốc cây để thiền quán.

Bấy giờ có một Ác Ma, muốn khuấy động nỗi sợ hãi, khiếp đảm, và khủng bố Tỳ-kheo-ni, muốn làm cho Tỳ-kheo-ni này tán tâm, đến gần và nói với Tỳ-kheo-ni trong những câu này:

"Ai tạo búp bê này?

Người tạo nó ở đâu?

Từ đâu búp bê sanh?

Nơi đâu nó hoại diệt?"

Lúc này, ý nghĩ chợt đến với Tỳ-kheo-ni Sela: "Ai vừa đọc câu này – là một con người hay không phải là con người?" Rồi ý nghĩ đã hiện hữu với Tỳ-kheo-ni: "đây là Ác Ma, người đã đọc câu này nhằm khơi dậy nỗi sợ hãi, khiếp đảm, và khủng bố ta, muốn làm cho ta thoát khỏi sự thiền định.”

Khi Tỳ-kheo-ni đã hiểu ra rằng "đây là Ác Ma," Tỳ-kheo-ni trả lời với nó bằng những câu này:

“Búp bê vô ngã tác

Búp bê là vô thường

Chẳng phải người khác tạo

Tùy thuộc vào nhân duyên

Mà nó có phát sanh

Khi nhân duyên phân tán

Là lúc nó hoại diệt

Như hạt giống nảy mầm

Được gieo trồng trong vườn

Vì hương vị của đất

Cùng độ ẩm của nó…

Cũng giống như thế đó

Các uẩn và các giới

Cùng các xứ tương thông

Tùy thuộc vào nhân duyên

Mà chúng mới hình thành

Khi nhân duyên rã tan

Thì chúng liền hoại diệt." 

Thế rồi Ác Ma buồn rầuthất vọng khi nhận ra rằng, "Tỳ-kheo-ni Sela biết ta" bèn biến mất ngay.

 

Bình: bài kinh này Ác ma cũng muốn thử trí tuệ của Tỳ-kheo-ni Sela về những mệnh đề Triết học về Nhân sinh quan và Thế giới quan mà chưa có ai giải đáp nổi. Ai tạo ra búp bê (sắc, cũng có thể hiểu là con người, là cái thân đang hiện diện của Sư cô)? Kẻ tạo nó ở đâu? Nó từ đâu sanh? Khi chết nó về đâu…?

Triết học xưa nay của Tôn giáo Hữu thần chỉ tạo nên được những đáp án giả tưởng: Mọi loài đều do một vị Thượng đế (Trời, Thần…) tạo ra, thế giớichúng sanh được điều động bởi bàn tay Thượng đế, khi chết thì về với Thượng đế…Nhưng không thể có một đáp án giả tưởng của giả tưởng: ai tạo ra Thượng đếThượng đế ở đâu (?)

Những khát vọng tri thức để giải tỏa những vấn nạn thì cũng chỉ là khát vọng, không đưa tới đâu. Sư cô Sela học theo giáo lý giác ngộ của Đức Thế tôn nên biết sắc/thân là Vô ngã, vì Vô ngã nên nó là Vô thường. Chẳng do ai tạo ra và làm chủ nó. Tùy thuộc vào nhân duyên mà có sanh, có trụ, có hoại và có mất.

Những nhân duyên để tạo nên thân gồm có 5 UẤN (Skandhas): Sắc (vật lý) và thọ, tưởng, hành, thức (tâm lý), kết hợp với 12 XỨ (āyatana): 6 Nội xứ (hay còn gọi là 6 căn - Ajjhattika-àyatana) mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý tiếp xúc với 6 Ngoại xứ (còn gọi là sáu trần - Bàhyu-àyatana) sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Khi 6 Nội xứ (căn) kết hợp chặt chẽ với 6 Ngoại xứ (trần) thì hình thành 6 Thức phân biệt (Vijnàna): nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thứcý thức. Như thế 6 căn, 6 trần, và 6 thức cộng lại là 18 GIỚI (dhātu). Uẩn-xứ-giới làm nhân duyên để tạo nên chúng sanh. Uẩn-xứ-giới cũng là tiến trình nhận thức luận về thế giới quan và nhân sinh quan Phật giáo

Ví dụ minh chứng cho nhân duyên của sắc thân được Tỳ-kheo-ni Sela minh họa rất rõ ràng, sống động: một hạt giống được gieo vào vườn, và rồi nó nảy mầm nhờ vào hương vị, phù sa của đất, nhờ vào độ ẩm, thời tiết v.v…mà hạt mầm mới hiện hữu. Uẩn, Xứ, Giới khi đủ nhân duyên kết hợp, tương thông cùng nhau mới tạo nên sắc và tâm, và khi nhân duyên phân tán thì sự hiện hữu biến mất.

Biết thân và tâm là giả hợp, thế giớinhân sinh là tổ hợp của uẩn-xứ-giới, thấy rõ tất cả là nhân duyên, nên không tham ái, không thủ, không hữu, không vướng mắc thì các duyên phiền não đau khổ cũng không còn nơi để trụ. Lối biện thuyết vô ngại của Tỳ-kheo-ni Sela là cái thấy rốt ráo của bất kỳ hành giả nào tu tập theo Giáo pháp của Đức Thế tôn.

Samyutta Nikaya V.10
Kinh Vajira 

Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Vajira khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Khi Tỳ-kheo-ni đi khất thực ở thành Xá Vệtrở về, sau bữa thọ trai của mình, Tỳ-kheo-ni đi đến vườn cây của ông Cấp-Cô-Độc để nghỉ vào ban ngày. Khi vào sâu trong vườn cây Cấp-Cô-Độc, Tỳ-kheo-ni ngồi xuống dưới một gốc cây để thiền quán.

Bấy giờ có một Ác Ma, muốn khuấy động nỗi sợ hãi, khiếp đảm, và khủng bố Tỳ-kheo-ni, muốn làm cho Tỳ-kheo-ni này tán tâm, đến gần và nói với Tỳ-kheo-ni trong những câu này:

"Ai tạo ra chúng sanh?

Người tạo nó ở đâu?

Chúng sanh sanh từ đâu?

Và về đâu khi diệt?”

Lúc này, ý nghĩ chợt đến với Tỳ-kheo-ni Vajira: "Ai vừa đọc câu này – là một con người hay không phải là con người?" Rồi ý nghĩ đã hiện hữu với Tỳ-kheo-ni: "đây là Ác Ma, người đã đọc câu này nhằm khơi dậy nỗi sợ hãi, khiếp đảm, và khủng bố ta, muốn làm cho ta thoát khỏi sự thiền định.”

Khi Tỳ-kheo-ni đã hiểu ra rằng "đây là Ác Ma," Tỳ-kheo-ni trả lời với nó bằng những câu này:

"Ác ma nghĩ như thế nào

Mới là một chúng sanh?

Ngươi làm chủ được không?

Toàn một tập hợp giả

Đây không có chúng sanh

Có thể được xác định.

Như tập hợp nhiều phần

Mà có tên xe ngựa

Cũng thế khi các uẩn

Tập hợp thành chúng sanh.

Vì có khổ mà sanh

Khổ tồn tại, hoại diệt

Không khổ thì không sanh

Không khổ thì không diệt.” 

Thế rồi Ác Ma buồn rầuthất vọng khi nhận ra rằng, "Tỳ-kheo-ni Vajira biết ta" bèn biến mất ngay.

 

Bình:  Cũng giống như bài kinh số 9, bài kinh này Ác ma cũng muốn thử trí tuệ của Tỳ-kheo-ni Vajira về câu hỏi nghìn đời: Ai tạo ra chúng sanh, chúng sanh chết đi về đâu…? Với trí tuệ sắc bén, Sư cô Vajira hỏi ngược lại Ác ma rằng ông có hiểu từ ‘chúng sanh’ và làm chủ được nó không mà hỏi xa như thế (?)

‘Chúng sanh’ với sự giải thích của Sư cô có nghĩa là ‘chúng duyên nhi sanh’ (衆緣而 生, 衆緣而共成 - Kammabhava paccayā jāti- Bhava-paccayā jāti), do các duyên mà hợp thành, rất nhiều yếu tố, không có một chủ thể thật để xác định. Kinh Na Tiên nói rằng Hợp 32 thể trược, 5 uẩn, 12 xứ và 18 giới gọi là con người, cũng như “tập hợp các món gọng, thùng, bánh, mui... thì thành một cái mà người ta tạm gọi là xe. Cũng thế, hiệp tất cả đầu, mặt, tay, chân, hơi thở, lời nói, sự khổ, sự vui, điều lành, điều dữ... thì cũng thành một đơn vị mà người ta tạm gọi là cái "ta" để tiện bề phân biệt. Chứ thật ra thì không có cái "ta" chơn thật nào cả!” Như thế tập hợp nhiều thứ không phải là chúng sanh mới hình thành cái mà ta tạm gọi là chúng sanh.

Chúng sanh do duyên mà sanh cũng do duyên mà diệt, nhưng do đâu mà sanh lại là một đáp án không đơn thuần. Trong đây Sư cô trả lời rằng do khổ (hoặc, nghiệp, khổ làm nhân duyên luân hồi (Samsàra)), Kinh Na Tiên cũng cho là Danh-Thân làm nhân cho Tái sinh, Danh (tên gọi) và Thân (hay Sắc, tức là đất, nước, lửa, gió).

Khổ ở trong câu trên là Nghiệp khổ. Phật dạy: “Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp, là quyến thuộc của nghiệp; nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra.” (Kinh Trung Bộ). Như thế Nghiệp tồn tạihoại diệt; nếu không có Nghiệp thì cũng không có sanh, không có Nghiệp thì cũng không có diệt. Sanh diệt chỉ đối với những ai tâm thức còn vô minh, còn bị điều động bởi Nghiệp. với bậc thức giả như Tỳ-kheo-ni Vajira, một trong mười vị Thánh Ni đệ tử của Thế tôn thì sanh và diệt cũng chỉ là hoa đốm trong hư không khi tâm thức không còn một niệm phiền não, trạng thái tâm vô biên thanh tịnh như trăng rằm trong sáng trong bóng đêm của màng vô minhảo tưởng.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22472)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21756)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23320)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21185)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21764)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20427)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24740)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18983)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 30970)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23981)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27760)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26505)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38119)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18430)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19951)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19038)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23143)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22906)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15845)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18848)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19648)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20148)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19950)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18111)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16410)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39235)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26057)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20095)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18844)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24050)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29109)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22899)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30943)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21000)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26849)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20672)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26250)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23318)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19816)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15826)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19843)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28955)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20685)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19419)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30484)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36417)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33213)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35540)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20967)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21911)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25255)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25787)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31240)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant