Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

An Trú Nơi Cô Tịch Là Thực Hành Của Một Bồ Tát

10 Tháng Hai 201100:00(Xem: 21781)
An Trú Nơi Cô Tịch Là Thực Hành Của Một Bồ Tát

AN TRÚ NƠI CÔ TỊCH
THỰC HÀNH CỦA MỘT BỒ TÁT

Dilgo Khyentse Rinpoche

Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt;
Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên;
Khi sự tỉnh giác trở nên trong trẻo hơn, niềm tin nơi Giáo Pháp tăng trưởng
An trú nơi cô tịch là thực hành của một Bồ Tát.

 

Khi bạn sống ở một nơi cô tịch, những cảm xúc tiêu cực của bạn dần dần giảm bớt, sự tự chủtiết chế của bạn tăng trưởng.

Chính Gyalse Thogme đã nói:

Ở một nơi cô tịch,
Không có kẻ thù để đánh bại,
Không có người thân để bảo vệ,
Không có người trên để tôn kính,
Không có thuộc hạ để chăm nom.
Vì thế, ngoài việc điều phục tâm mình,
Bạn sẽ phải làm điều gì khác ở đó, hỡi những người trì tụng Mani?1

Không bị quấy rầy bởi bằng hữu và người thân, không bị xáo trộn bởi nhu cầu kiếm sống bằng việc thương mại hay canh tác đất đai, bạn sẽ có thể nhất tâm tập trung vào thực hành tâm linh sâu xa và vì thế thực hiện sự tiến bộ tâm linh với thân, ngữ và tâm bạn. Tâm bạn sẽ trở nên tự chủ, tĩnh lặng, trong trẻo và tràn đầy sự xác quyết về chân lý của Giáo Pháp. Đây là lý do vì sao tất cả các bậc hiền triết trong quá khứ đã sống ở nơi hoang vu, trong chốn cô tịch, những vùng núi non có lợi cho thực hành tâm linh. Như Shantideva đã nói:

Và như thế, nhàm chán bởi dục vọng và khao khát của ta,
Giờ đây ta hãy vui thú trong chốn cô tịch,
Ở những nơi mọi tranh chấpxung đột ngừng dứt,
Sự thanh bình và tĩnh lặng của rừng xanh.2

Và cũng có nói:

Không bị dính mắc vào lợi dưỡng, hãy giống như gió, hãy giống như chim.
Sống nơi hoang dã, giống như một con thú nhút nhát.
Hành động đúng đắn, bạn sẽ an trụ thanh thản.

Nếu bạn muốn hoàn toàn tập trung vào Giáo Pháp thay vì bị đong đưa liên tục đó đây bởi những con sóng tham muốnganh ghét, hãy từ bỏ chúng và đi tới một nơi cô tịch. Hãy xoay tâm bạn vào trong, nhận biết những khiếm khuyết của bạn, thoát khỏi chúng, và phát triển mọi phẩm tính tốt lành cố hữu của bạn. Hãy hài lòng với lượng thực phẩm đủ để nuôi sống, quần áo đủ để che thân, và thực hành của bạn sẽ tiến bộ từng ngày, từng tháng và từng năm.

Một khi bạn thoát khỏi mọi điều kiện làm sao lãng, thực hành của bạn sẽ mang lại cho bạn sự tiến bộ dọc theo con đường. Đó là lý do vì sao mọi yogi (hành giả) trong quá khứ đã lang thang từ nơi cô tịch này tới một nơi cô tịch khác. Ngay cả một tháng duy nhất ở một nơi yên tĩnh và hiu quạnh cũng đủ để sự thù hận của bạn được thay thế bằng ước muốn làm lợi lạc chúng sinh, và sự bám luyến vào bằng hữu được thay thế bằng một cảm xúc mãnh liệt về sự vô thường và cái chết cận kề.

Như Đức Atisha đã nói: “Các sao lãng làm hại thực hành của bạn cho tới khi bạn đạt được sự kiên cố. Hãy sống trong cảnh cô tịch nơi rừng rậm và núi non. Thoát khỏi những hoạt động rối loạn, bạn sẽ có thể hoàn toàn hiến mình cho việc thực hành Giáo Pháp, và bạn sẽ không hối tiếc vào lúc chết.”

Và Drom Tönpa3 nói: “Thời đại suy đồi này không phải là lúc để một người bình thường giúp đỡ những người khác ở bên ngoài, nhưng đúng hơn đó là lúc để sống trong những nơi cô tịch và tu tập lòng từ và bi của Bồ đề tâm.”4

Sự mê lầm và những tập khí mạnh mẽ tới nỗi vào lúc đầu việc thực hành Pháp dường như rất khó khăn; nhưng những khó khăn này sẽ dần dần lắng dịu. Một khi bạn đã thấu hiểu điểm cốt yếu của các giáo lý, bạn sẽ không còn phải trải nghiệm sự gian khổ hay khó khăn với giáo lý. Những cố gắng của bạn sẽ mang lại cho bạn niềm vui. Cũng giống như việc phát triển bất kỳ thiện xảo nào – bởi bạn quán triệt những điểm trọng yếu, vấn đề càng lúc càng dễ dàng hơn, sự xác tín của bạn càng lúc càng phát triển, khả năng và nỗ lực của bạn tiếp tục tăng trưởng.

Mọi thiền định hay quán chiếu bạn đã thực hiện sẽ chẳng bao giờ bị lãng phí. Lợi lạc mà nó mang lại sẽ hiện diện trong dòng tâm thức của bạn vào lúc bạn chết, và nó sẽ giúp bạn tái sinh ở một nơi Giáo Pháp nở rộ, thân cận một vị Thầy tâm linh chân chính. Đời này sang đời khác, bạn sẽ tiến triển từ một hành giả tầm thường tới một hành giả trung bình, và từ một hành giả trung bình tới một hành giả xuất sắc. Tinh túy của việc học tập là quán chiếu, và tinh túy của sự quán chiếu là thiền định. Khi bạn tiến càng lúc càng sâu vào ý nghĩa của giáo lý, những phẩm chất phi thường của Giáo Pháp sẽ càng lúc càng rõ ràng hơn, giống như mặt trời rực rỡ hơn khi bạn bay lên cao hơn nữa.

Dấu hiệu cho thấy bạn đã hoàn toàn hấp thu được việc học Pháp của bạn là bạn trở nên an bình tự bản chất. Dấu hiệu của việc bạn đã hấp thu được việc thiền định của bạn là bạn thoát khỏi những cảm xúc che chướng (phiền não chướng). Bởi việc học tập dẫn đến sự quán chiếu và quán chiếu chuyển hóa thành thiền định, việc bạn mê say những hoạt động dối gạt của đời này sẽ suy giảm và thay vào đó bạn sẽ khát khao Giáo Pháp.

Mọi sự bạn làm phù hợp với Giáo Pháp, dù nó có vẻ nhỏ bé hay tầm thường, sẽ mang lại lợi lạc. Như Kinh Hiền Ngu nói:

Đừng xem thường những thiện hạnh nhỏ bé,
Nghĩ rằng chúng khó có thể mang lại lợi lạc;
Bởi từng giọt từng giọt nước
Cuối cùng có thể làm đầy một chiếc bình khổng lồ.

Tương tự như vậy, cho dù bạn chỉ thực hành mỗi ngày một giờ với niềm tin và sự hứng khởi, những phẩm tính tốt đẹp sẽ phát triển một cách vững chắc. Việc thực hành đều đặn làm cho tâm bạn chuyển hóa dễ dàng. Từ việc chỉ nhận ra chân lý tương đối, cuối cùng bạn sẽ đi đến một sự xác quyết sâu xa nơi chân lý tuyệt đối.

Chướng ngại chính yếu của việc phát triển những phẩm tính như thế là sự sao lãng (phóng dật). Sao lãng có thể xảy ra trong từng giây phút. Nếu bạn để thời gian trôi qua một cách vô ích, vào lúc chết bạn sẽ hối tiếc rằng bạn đã không thực hành Giáo pháp. Nhưng đến lúc ấy thì quá trễ, và sự hối tiếc của bạn sẽ chẳng giúp ích được gì. Bây giờ là lúc bạn đi tới một nơi hẻo lánh và đưa những giáo huấn bạn đã nhận từ vị Thầy của bạn vào thực hành. Như thế mỗi khoảnh khắc của đời bạn sẽ trở nên quý giá và ý nghĩa, đưa dẫn bạn càng lúc càng xa rời sinh tử và tiến gần đến sự giải thoát hơn nữa.

Chú thích:

1. Người trì tụng Mani (mani pa): người trì tụng Mani, thần chú của Đức Quán Thế Âm, Đức Phật của lòng Bi mẫn. Ở đây, “những người trì tụng Mani” được dùng như một thuật ngữ đầy trìu mến để chỉ các hành giả Giáo Pháp.

2. The Way of the Bodhisattva (Nhập Bồ Tát Hạnh), trang 121.

3. Drom Tönpa Gyalwai Jungne (‘brom ston pa rgyal ba’i ‘byung gnas, 1004-1064): đệ tử người Tây Tạng thân thiết nhất của Đức Atisha, người đã ở với vị Thầy này mười tám năm. Ngài sáng lập tu viện Reting (rwa sgreng) nơi ngài an trú và giảng dạy bảy năm trước khi thị tịch ở tuổi sáu mươi.

4. Xem The Words of My Perfect Teacher (Lời Vàng của Thầy Tôi), trang 237.

Thanh Liên trích dịch từ nguyên tác:
“The Heart of Compassion – The Thirty-Seven Verses on The Practice of a Bodhisattva” by Dilgo Khyentse Rinpoche

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10376)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12267)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15448)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16691)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12323)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11592)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14364)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24733)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10773)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12577)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10485)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12438)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11740)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12134)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13090)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11532)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17560)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21593)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10753)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19392)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12518)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26210)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14485)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13827)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16951)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17750)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13249)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12618)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11699)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11706)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20632)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19171)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19710)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18815)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15172)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15133)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14064)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15611)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14633)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15949)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12975)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18569)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15875)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11161)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53810)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13067)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16694)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15545)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 20045)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15640)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15481)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15265)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10502)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20489)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15648)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13130)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20369)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13376)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29107)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11798)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant