Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

3. Phần 46 - 50

18 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8534)
3. Phần 46 - 50

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT

Hòa thượng Thích Thiện Siêu

46. Sáu trường hợp tâm niệm sám diệt tội Tăng tàn.
47. Sám hối tội Ba-la-di và Tăng tàn.
48. Sám hối tội Thâu-lan-giá.
49. Sám hối tội Ba-dật-đề, Đề-xá-Ni, Đột-kiết-la.
50. Mười tám việc đưa đến phá hòa hợp Tăng: phá kiết-ma Tăng, phá Pháp
luân Tăng

46. Sáu trường hợp sám diệt tội Tăng tàn.
 

Lại có một bổn khác trong Hành Sự Sao quyển hạ, nói ý hơi khác một chút. Cũng nói có 6 hạng người phạm Tăng tàn có thể tâm niệm sám (bên Căn Bổn Tát-bà-đa bộ thì đối thủ sám) của Đạo Tuyên luật sư, Tổ sáng lập Luật tông viết.

 

1. Hạng Thượng tọa phạm Tăng tàn. Khi thấy như thế các người khác sinh tâm kiêu mạn, tức họ cũng có lỗi, cũng mất nhờ, cho nên đức Phật nói: nếu Thượng tọa đó nhất tâm sinh niệm sám hối thì được thanh tịnh

 

2. Hạng Thượng Tọa mà cả Tăng, tục thiện hữu đa số điều biết tiếng tăm. Đối với hạng này nếu có phạm Tăng tàn cũng không xử như người khác, đem ra giữa chúng Tăng đủ hai mươi Tăng xuất tội, mà họ có thể tâm niệm sám thì được thanh tịnh.

 

3. Hạng đa tàm quý. Là hạng người mà động tịnh gì là biết tàm quý, nếu đem ra giữa chúng Tăng đông đủ hai mươi Tăng xuất tội họ mắc cỡ có thể xả giới bỏ tu, hay có thể xấu hỗ chết đi thôi vì họ nhạy cảm. Nếu họ tâm niệm sám thì được thanh tịnh.

 

4. Là hạng người bịnh quá nặng, giữ không được, không đủ sứcsám hối...

 

5. Là hạng người ở trú xứ một mìnhphạm Tăng tàn, không đủ 20 vị Tỳ-kheo thanh tịnh để cầu sám hối, mà đi qua xứ khác thì gặp giặc, bị giặc hại mà chết, tự nhiên mọi sự đều hết, nên họ có thể tâm niệm sám.

 

6. Là ở trong chúng Tăng của mình đang ở, không có ai thanh tịnh hết. Vị này biết lỗi, đi qua xứ khác tìm các vị Tăng thanh tịnh để xin sám hối, nhưng lo đi giữa đường bị giặc giết chết, sự việc cũng hết.

Sáu hạng này, đức Phật nói nhất tâm sinh niệm như pháp sám hối thì người đó được thanh tịnh, khi chết được sinh Thiên thượng. 

47. Sám hối tội Ba-la-di và Tăng tàn.
 

Chúng của Phật có chúng 20 người, có chúng 10 người, có chúng 4 người, có chúng 3 người, có chúng 1 người và tự tâm sám. Chúng 10 là chúng khi thọ Đại giới. Trong giới của Phật chế, thì tội Ba-la-di là tội nặng nhất. Muốn sám hối thì phải sám với 20 người. Nhưng nói tội Ba-la-di mà sám hối với chúng 20 người được sao? Vì Ba-la-di là tội bất khả sám. Nhưng khi nói sám với 20 người là trường hợp người phạm biết ăn năn hối hận, nếu bắt tội không cho sám thì họ có thể buồn nản và tự tử. Họ thương chiếc áo Ca-sa, ưa đời sống tu sĩ quá, vì vậy khi phạm họ cũng rất ăn năn hối hận. Trường hợp này luật cũng cho phép họ học pháp Ba-la-di. Người muốn học pháp Ba-la-di cũng đối trước chúng Tăng 20 người để xin phép và chúng Tăng 20 người kiết-ma cho phép học pháp Ba-la-di. Khi được phép rồi vẫn không được tham dự Tăng sự, chỉ được giữ hình thức tu sĩ ở trong chùa. Trường hợp sám với 20 người là trường hợp này, nên chỉ dành cho Tăng chứ Ni không có chuyện sám này.

 

Muốn sám hối lội Tăng tàn thì sám hối với ai? Tăng phạm tội Tăng tàn, nếu không che dấu thì trong sáu đêm hành Ma-na-đỏa, phải sám hối trước Tăng 4 vị trở lên. Còn Ni thì trong 15 hôm hành Ma-na-đỏa, phải sám hối trước hai bộ Tăng, mỗi bộ 4 vị trở lên. Khi tác pháp xuất tội, thì phải đủ 20 vị Tăng xuất tội cho Tăng, và 20 Tăng, và 20 Ni xuất tội cho Ni. Nếu thiếu thì tội Tăng tàn không hết. 

48. Sám hối tội Thâu-lan-giá.
 

Muốn sám hối tội Thâu-lan-giá thì sám với ai? Tùy theo thượng phẩm, trung phẩm, hạ phẩm Thâu-lan-giá mà sám. Thượng phẩm sám với 20 người, trung phẩm sám với 4 người, hạ phẩm sám với 3 người. Tội này thì sám hối được.

49. Sám hối tội Ba-dật-đề – Đề-xá-Ni – Đột-kiết-la.
 

Sám hối tội Ba-dật-đề thì trước một người, Đề-xá-ni cũng vậy. Còn tội Đột kiết la sám hối với ai? Không sám hối với ai hết, mà khi xảy ra, mình tự trách lấy lòng mình thôi. Thí dụ, khi mình làm điều gì đó biết là sai, nghĩ rằng: Tôi ăn năn quá, bậy quá, mình làm điều đó sai quá, sau này không nên làm nữa. Thế là hết tội.

 

Muốn sám hối thì phải tìm vị Tỳ-kheo nào không có tội mà sám, còn tìm những vị có tội mà sám thì cá mè một lứa, coi như huề, không sám chi hết.

 

Tăng, Ni là chúng xuất gia, Ni có nhiều giới hơn. Cho nên có những giới Ni, Tăng đồng nhau, nhưng cũng có những giới Ni, Tăng khác nhau. Phạm cũng như thế. Trong giới sát, đạo, dâm, vọng, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni phạm thì ghép vào tội Ba-la-di, còn Sa-di, Sa-di-ni phạm thì tội Đột kiết la, đuổi ra khỏi chùa mà thôi. Vì Sa-di, Sa-di-ni không cùng cọng trú kiết giới, cho nên có phạm cũng không gọi là phạm tội bất cọng trú, chỉ không cho thọ giới tiếp mà thôi.

50. Mười tám việc đưa đến phá hòa hợp Tăng.
 

Trong Học pháp có một giới cần phải nhận định rõ, là giới phá hòa hợp Tăng. Tăng từ 4 vị trở lên, không biệt chúng mà đồng một kiết-ma, đồng thuyết một giới, gọi là Tăng hòa hợp. Có 18 việc dẫn đến sự phá Tăng hòa hợp

 

1. Pháp nói là phi pháp (như Tám thánh đạocon đường duy nhất đưa đến Niết-bàn, lại cho không phải hoặc không duy nhất).

 

2. Phi pháp nói là pháp (trái với trên).

 

3. Luật nói là phi Luật (Tám thánh đạo là nền tảng của Luật, lại nói là không phải. Hoặc bốn Thánh chủng là Luật, lại cho là không phải Luật).

 

4. Phi Luật nói là Luật (trái với trên).

 

5. Phạm nói là không phạm.

 

6. Không phạm nói là phạm.

 

7. Phạm khinh nói là phạm trọng.

 

8. Phạm trọng nói là phạm khinh.

 

9. Phạm hữu tàn nói là vô tàn (tàn là dư tàn; phạm những tội có thể sám hối là hữu tàn, còn tội Ba-la-di không thể sám hối gọi là vô tàn).

 

10. Phạm vô tàn nói là tàn (trái với trên).

 

11. Tội thô ác nói là phi thô ác.

 

12. Tội phi thô ác nói là thô ác.

 

13. Thường sở hành nói là phi thường sở hành (pháp thường sở hành chỉ cho tám Thánh đạo, pháp phi thường sở hành chỉ cho 5 điều của Đề-bà-đạt-đa).

 

14. Phi thường sở hành nói là thường sở hành.

 

15. Chế nói là phi chế (Điều luật Phật cấm chế nói là không phải cấm chế).

 

16. Phi chế nói chế (trái với trên).

 

17. Thuyết nói là phi thuyết (những điều do chính Phật dạy nói là không phải).

 

18. Phi thuyết nói là thuyết.

 
Duyên khởi từ Đề-bà-đạt-đa.

 

Trong Luật nói phá Tăng có hai thứ: Phá kiết-ma Tăng và phá pháp luân Tăng.

 

– Phá kiết-ma Tăng: Là ở cùng trong một giới, tách ra để Bố-tát riêng, hoặc phá không để cho Tăng kiết-ma.

 

Phá pháp luân Tăng: Pháp luân gọi là Bát chánh đạo... Phật chuyển Pháp luân, chuyển Tứ đế, Bát chánh đạo pháp luân. Bây giờ khiến Tăng bỏ Bát chánh đạo của Phật để nhập vào tà đạo gọi là phá pháp luân Tăng. Trường hợp phá pháp luân Tăng phạm tội ngũ nghịch, nhưng nó là tội khả hối, chứ không phải là tội Ba-la-di, mà là tội Tăng tàn. Còn phá kiết-ma Tăng không phải tội ngũ nghịch mà là tội khả sám thuộc Thâu-lan-giá. Phá pháp luân Tăng ít nhất là phải có chín người. Trong chúng 9 người đó tách ra 5 người, một người xưng là Phật và đưa ra một giáo thuyết khác với Phật, bốn người kia phụ họa theo giáo thuyết tự xưng là Phật đó. Như vậy là họ phá chúng Tăng đang nghe theo pháp luân của Phật nên gọi là phá pháp luân Tăng. Phá pháp luân Tăng chỉ xảy ra khi Phật còn tại thế. Còn sau khi Phật nhập diệt không còn nạn phá phá pháp luân Tăng nữa. Dầu các Tổ bên Trung Hoa có lập ra tông này phái nọ, không phải là phá pháp luân Tăng, bởi vì các Tổ đều tôn Phật làm giáo chủ. Thứ đến, như hiện nay bà Thanh Hải tự xưng là Vô thượng sư hay ở nước ta có người tự xưng là U minh giáo chủ, hay là gì gì đi nữa cũng không thành vấn đề, vì họ không phải là Tỳ-kheo, nên cũng không phải là phá pháp luân Tăng, vì họ có thành Tăng đâu mà gọi là phá Tăng. Phá pháp luân Tăng là Tỳ-kheo Đề-bà-đạt-đa đi tranh với Phật, rủ thêm bốn người là Tỳ-kheo Tăng-bạt, Kiển-trà-bạt-đà, Câu-bà-li, Ca-lưu-đề-xá với thầy (tức Đề-bà-đạt-đa) là năm, kết bạn với nhau, khất thực từ nhà nọ đến nhà kia. Phật nói các thầy không được biệt chúng khất thực như vậy, Tỳ-kheo Đề-bà-đạt-đa tức giận mà nói: “Như lai Sa môn đã chặn đứng miếng ăn của người khác cho nên thầy rắp tâm phản, tách riêng thành chúng và xướng lên 5 pháp khác với Phật, cho hơn Phật”.

 

– Thứ nhất: Phật chế: Thường hành khất thực, thứ đệ khất thực, nếu có ai mời ăn thì chấp nhận, nếu có ai hỷ cúng cũng chấp nhận. Bây giờ Đề-bà-đạt-đa làm trái lại lời Phật. Thầy chủ trương ai cúng cũng không ăn, ai mời thọ thực cũng không nhận, ai cho thầy cũng không lấy, chỉ có đi khất thực mà ăn thôi.

 

– Thứ hai: Phật chế: Phấn tảo y, tức y lượm vải vứt bỏ ở bãi tha ma, đem về tẩy rửa cho sạch mà may y. Tuy nhiên, nếu có ai cúng y cũng nhận lãnh. Bây giờ thầy chủ trương: phấn tảo yy chính, còn ai cúng y mới thầy cũng không nhận.

 

– Thứ ba: Phậl chế: Lộ địa tọa hay thọ hạ tọa, nhưng nếu có ai cúng tinh xá, cúng chùa thì cũng ở. Thầy nói không được, thầy chỉ ngồi đất trống hay dưới gốc cây mà thôi. Còn nếu ai cúng chùa, tinh xá, giảng đường thầy cũng không nhận.

 

– Thứ tư: Phật chế: Không được ăn bơ, dầu để cách đêm. Thầy nói không cách đêm cũng không được ăn.

 

– Thứ năm: Phật chế: Tùy thí đắc thực, được phép thọ tam tịnh nhục là bất kiến, bất văn, bất nghi (tức không thấy người ta giết, không nghe tiếng kêu của vật bị giết và không nghi người ta giết để cúng cho mình). Thầy chủ

trương, dầu có cúng cũng không ăn.

 

Năm pháp đó ngược lại bổn ý của Phật. Thầy chế ra giới của thầy không dính gì với Bát chánh đạo. Bát chánh đạo là Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệmChánh định. Phật cho tu như vậy mới đắc đạo, nhưng thầy nói tu như thầy mới đắc đạo, bằng cách chế năm đỉều như trên, không cần Bát chánh đạo. Thầy chế ra một giáo thuyết và thầy tự xưng Phật, nên thầy bị ghép vào tội phá pháp luân Tăng. Nhưng tội đó theo Luật là tội Tăng tàn. Nếu phá như vậy mà không ai can ngăn cả, cũng không phải là tội Tăng tàn. Tội Tăng tàn như trong Luật nói là nếu có bạch tứ kiết-ma can gián xong, mà thầy không bỏ mới mắc tội, nhưng mới bạch nhị kiết-ma mà thầy bỏ thì chỉ phạm Thâu-lan-giá. Có những trường hợp làm nhưng không phạm là trường hợp mới ngăn đã bỏ. Thứ hai là khi Phật chưa chế giới đó. Thứ ba, nếu chúng Tăng muốn kiết-ma một tội nào mà phi pháp biệt chúng kiết-ma, phi pháp hòa hiệp chúng kiết-ma, như pháp biệt chúng kiết-ma, như pháp tương tợ biệt chúng kiết-ma, như pháp tương tợ hòa hợp chúng kiết-ma, thì đều vấp phải kiết-ma phi tướng, dầu có 3 lần khuyên, mà vì kiết-ma không đúng đó, kết tội cũng không thành.

 

Cho nên bên xử tội phải đúng tư cách một ông Luật sư làm đủ thủ tục mới kết tội được, trái lại, không phải là Luật sư, làm không đúng thủ tục thì lại càng không kết tội người ta được, mặc dầu người đó có tội. Ví dụ, nếu thầy là ông Tăng, thầy đang sửa soạn phá hòa hợp Tăng, nhưng tôi chặn hành động phi pháp ấy lại dầu tình giữa thầy và tôi có sức mẻ, cũng không gọi là phá Tăng. Hoặc kết tập một, hai, ba người làm kiết-ma để phá Tăng, cũng không gọi là phá Tăng, vì không đủ 5 người. Hoặc phá những kẻ ác tri thức, những người muốn làm tổn hại hay sắp sửa làm tổn hại cho Tăng, cho pháp, cho Hòa thượng, cho A-xà-lê, làm cho mất chỗ ở, cũng không gọi là phá Tăng.

 

Phá pháp luân Tăng này, bất kỳ Tăng cùng ở nội giới, ngoại giới đều phá được hết. Còn phá kiết-ma Tăng là cùng ở trong một giới mới phá kiết-ma Tăng được. Phá pháp luân Tăng chỉ có Tỳ-kheo, còn Ni không phá được, vì Ni không làm Phật được, nên không phá được. Phá kiết-ma Tăng là phải ngồi chung lại kiết-ma, bỏ thăm, tách ra mới phá, chứ không phải tới ngày Bố-tát bỏ đi chơi gọi là phá Tăng. Thí dụ hôm nay có 20 người, mới vô giới trường 12 người, còn 8 người bỏ đi chơi. Tám người không vô đó gọi là phá được không? Không được. Khi nào ngồi lại bỏ thăm, có người xúi sử không chịu ngồi chung với nhau nữa, tách ra Bố-tát riêng biệt giới mới gọi là phá kiết-ma Tăng. Nếu có ai vô trong giờ Bố-tát mà la lối ồn ào cũng không phải là phá kiết-ma Tăng. mà chỉ phạm tội ô cấu Tăng, phá pháp lục hòa, phạm pháp nhưng không phạm giới. Nếu biết một số người muốn phá Tăng, thì các vị Tỳ-kheo nên can họ đừng phá, vì phá Tăng mang tội nặng lắm, bị đọa địa ngục, khổ sở vô cùng. Và dụ dỗ họ: Nếu thầy cần y tôi cúng y, cần áo tôi cúng áo, cần tứ sự cúng dường tôi xin cúng hết. Nếu thầy đó không chịu thì nên đến vị ưu-bà-tắc thân cận thầy đó, nhờ khuyên họ đừng phá Tăng mà mang tội, thôi đừng nên phá Tăng, nếu cần gì tôi xin cúng dường hết. Thậm chí, nếu thầy tu không được, thì tôi sẽ cưới vợ cho, nhưng thầy đừng phá Tăng. Thế cho hay, trong Luật nói, khi một người làm ông Tăng, Phật thấy quý lắm, vì thấy quý cho nên thầy lỡ có phạm giới thì cũng tìm đủ mọi cách để giải sự phạm giới của thầy, chứ không trị liền. Phải ba lần can gián đã, trước khi can gián thì phải nhờ ông này bà kia có thân có thế đến can đến khuyên, dụ dỗ vật chất khuyên đừng phá Tăng. Nếu tu không được thì tôi cưới vợ giúp đỡ, chứ đừng phá Tăng. Nếu cố tình không chấm dứt, thì bắt thăm, khu xuất ông đi ra khỏi chỗ ấy mà thôi. Khi đã đuổi ra khỏi địa phương ấy rồi thì phải xướng lên rằng: “Các Đại đức, ông phá Tăng đi đến chỗ đó nên thận trọng, chớ để cho người khác họ lầm, đi theo”. Cho nên, khi đã kiết-ma trục xuất thì ông đi đến đâu phải thông báo cho họ biết, để cảnh báo họ kẻo họ không biết chúng Tăng đuổi ông đó.

 

Nói tóm, có 2 cách phá hòa hợp Tăng:

 

1. Phá pháp luân Tăng: Trường hợp Đề-bà-đạt-đa phá pháp luân Tăng khi Phật tại thế. Sau khi Phật nhập diệt không có phá pháp luân Tăng. Cách thức phá là: tự xưng Phật riêng, có pháp riêng, không nghe theo pháp luân của Phật.

 

2. Phá kiết-ma Tăng: Trường hợp trong cùng một kiết giới, cùng một thuyết giới, cùng một kiết-ma, đồng giới. Tất cả mọi việc gì cũng cùng một kiết-ma hết. Nhưng bây giờ có người sinh sự, lập ra một nhóm tạo ra sự bất hòa, rồi đưa đến kiết-ma, tập hợp lấy biểu quyết kiết-ma tách ra làm hai nhóm, gọi là phá kiết-ma Tăng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9290)
Nghi Lễ Hàng Ngày NS Thích Nữ Giới Hương biên soạn
(Xem: 69543)
Nghi Thức Thỉnh Đại Hồng Chung - Giọng thỉnh chung: TT Thích Nguyên Tạng
(Xem: 87898)
Các Bài Sám Văn Cúng Thí Thực Âm Linh Cô Hồn - Tuyển Tập trong nhiều nghi thức tụng niệm của nhiều soạn giả
(Xem: 25042)
Diệu, sâu, Tổng Trì đứng hàng đầu, Thủ Lăng Nghiêm nhân thế khó cầu, Diệt vọng điên đảo muôn ức kiếp, Không qua nhiều đời được Pháp Thân.
(Xem: 14043)
Nghi Thức Truyền Giới Bồ Tát Tại Gia, HT Thích Đổng Minh biên soạn
(Xem: 29279)
Chúng ta đời đời kiếp kiếp học Phật tu hành không được thành tựu, không có biện pháp thoát khỏi luân hồi, là vì có oan gia trái chủ đến...
(Xem: 27027)
Đầu năm Cúng Hội Cầu An Nguyện cho Quốc thái Dân an mọi nhà Nhân sinh yên ổn hoan ca Xã hội tốt đẹp kết hoa tình người
(Xem: 38919)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 34340)
Hào quang chiếu diệu. Sáng tỏ mười phương, Ngộ lý chơn thường, Phá màn hôn ám.
(Xem: 44479)
Nguyện thứ nhất: Tôi thành Phật được, Thì nước tôi là nước tịnh thanh. Ngục hình, ngạ quỷ, súc sanh, Thảy đều chẳng có sanh thành nơi đây.
(Xem: 53191)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 19311)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo Pháp mây hương Ngát tỏa khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 143939)
Đây là quyển sách với những quy ước về nghi lễ tang ma của nhân gian. Người Phật tử chỉ nên tham khảo cho biết, không nên y cứ để thực hành...
(Xem: 16287)
Đại từ, đại bi thương chúng sanh, Đại hỉ, đại xả, cứu hàm thức, Tướng đẹp sáng ngời dùng trang nghiêm, Chúng con chí tâm thành đảnh lễ...
(Xem: 19725)
Chúng con cung kính nghe rằng: Hương sơn đại định, Viên thành ngàn vạn Đà la; Nam hải trùng ba, Quảng phát mười hai diệu hạnh...
(Xem: 9451)
Cùng Tổ ngộ lòng thiền, trong cửa Tây Thiên vâng lời thọ ký; Vì người khai Phật trí, tại chùa Thiên Mộ, nối nghiệp độ sinh !
(Xem: 18411)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 53785)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 29917)
Nam mô từ Lâm Tế chánh tôn sắc tứ Chúc Thánh Tự khai sơn trùng hưng quá cố đường thượng chư vị lịch đại Tổ sư...
(Xem: 23278)
Khể thủ nhứt thiết xuất thế gian, Tam giới tối tôn công đức hải, Trí giả năng thiêu phiền não cấu, Chánh giác ngã kim quy mạng lễ...
(Xem: 61123)
Nhất tâm đảnh lễ A tỳ ngục tốt, sơ phát thiện tâm, Chúng hòa: Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật.
(Xem: 24385)
Lễ tắm Phật là một trong những nghi thức phổ biến của lễ hội Phật đản hằng năm trong nhiều truyền thống Phật giáo khác nhau. Nghi thức này vốn đã xuất hiện khá lâu tại Ấn Độ, Trung Á và Trung Hoa...
(Xem: 82012)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài, cùng lúc ấy, chư thiên tung hoa trời, trổi nhạc trời chúc mừng thái tử.
(Xem: 25023)
Dựa trên bản Hán do HT Thích Trí Thủ soạn; Hạnh Cơ dịch sang nghĩa thuần Việt
(Xem: 35867)
Bản Sưu Tập các Bài Tán nầy được trích trong các cổ bản Tán Sám, Nghi Thức, Hành Trì viết tay bằng hán tự... Quảng Bảo
(Xem: 13061)
Muốn cho cuộc lễ được tươm tất và thành kính, chuông trống bát nhã không thể thiếu được lúc bắt đầu và khi chấm dứt lễ.... Thích Giác Duyên
(Xem: 24770)
Nghi Thức lạy 108 lạy Tam Bảo do HT Thích Trí Thủ biên soạn PL. 2518
(Xem: 21456)
Chuông vàng bảng ngọc thấu bốn phương, Thần Thánh về đây đếm không lường, Âm thinh biến khắp mười phương cõi, Chư Phật Bồ tát chứng đàn tràng... HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 24665)
Nguyện tiếng chuông nầy ngân khắp cõi, Thiết-vi ngục tối thảy xa nghe, Cõi trần trong sạch đều thông suốt, Giác ngộ sanh linh cả mọi loài... HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 10474)
Nghe Tụng Kinh Bát Nhã, Qua Nhiều Ngôn Ngữ... Hoavouu sưu tầm
(Xem: 27754)
Kính lạy Bồ Tát Tất Đạt Đa, Tánh đức từ bi hằng biểu lộ, Trải bao cuộc du hành mục đổ, Xót sinh linh kiếp số trầm luân... Nghi Lễ
(Xem: 25450)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 21298)
Dựa theo “Lục Thì Sám Hối Khoa Nghi” của vua Trần Thái Tông, Việt-nam... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 145105)
Trung Khoa Du Già Thí Thực Khoa Nghi 中科瑜伽施食科儀(Đông Mật)... Quảng Minh dịch chú
(Xem: 39221)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14040)
Nghi Thức Cúng Giao Thừa - Biên soạn Thích Nguyên An
(Xem: 23594)
Táo tiếng Hán có nghĩa là bếp. Hàng năm, khi năm hết Tết đến, vào ngày 23 tháng Chạp, nhà nhà đều sắm sửa lễ nghi, cúng tiễn ông Táo chầu trời... Tân Nguyễn
(Xem: 42890)
Khoa nghi này truyền sang nước ta đã lâu đời, thường được gọi là nghi thức đăng đàn chẩn tế, do các cao tăng làm sám chủ...
(Xem: 48036)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 32808)
Kính lạy chư Phật khắp mười phương, Tuyên dương Pháp nhiệm mầu thanh tịnh, Thánh Tăng cả ba thừa bốn quả, Rủ lòng từ bi xin chứng giám... Hạnh Cơ
(Xem: 18354)
Kính lạy Phật! Con từ vô thỉ kiếp, Mây vô minh che lấp tánh viên minh, Tạo bao việc ác, bỏ hết việc lành, Quanh quẩn luân hồi, vào ra sinh tử... Hạnh Cơ
(Xem: 23596)
Tại Gia Bồ Tát Giới Bổn - 3 ngôn ngữ Anh, Việt, Hoa - Nhiều Tác Giả
(Xem: 81321)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 17542)
Danh từ tên gọi của Thủ Lư theo sách Trung Hoa Phật Quang Văn Hóa Thiên Phật Giáo Dụng Ngữ chép: "Thủ lư là lư hương cầm ở trên tay, còn gọi là Bỉnh hương lư, Thủ lư, Đề lư... Thích Tâm Mãn
(Xem: 15625)
Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn do HT Thích Nhất HạnhHội Đồng Giáo Thọ Làng Mai biên soạn
(Xem: 58275)
Nhạc Thỉnh Trong Trai Đàn Chẩn Tế - Thích Hạnh Tuệ sưu tầm
(Xem: 26820)
Theo giáo lý đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải thoát cho ai, ngoại trừ chính cá nhân người đó.
(Xem: 22331)
Để thành tựu được lễ dâng y kathina, người thí chủ cần phải có sự hiểu về tấm y gọi là “Y Kathina” và nghi thức làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.
(Xem: 26816)
Bảng Chữ Nho khắc in tại chùa Báo Quốc, năm Đồng Khánh thứ 3, Mậu Tý (1888) - Chùa Báo Quốc
(Xem: 23853)
Thờ CúngLễ Bái là một trong những Gia Bảo tinh thần đáng quý của Tổ Tiên để lại cho con cháu kế thừa. Gia Bảo này đã đ­ược hấp thụ tinh hoa lâu đời do các Tôn Giáo bồi đắp...
(Xem: 60770)
Xưng là Tứ Thiên Vương bởi vì bốn vị Thiên Vương này ở bốn hướng Đông Tây Nam Bắc. Tứ Đại Thiên Vương là thần tướng của vua trời Đế Thích, ở núi Kiền Đà La...
(Xem: 26424)
Đạo Phật ngoài các vị thiên thần Hộ Pháp hộ giới ra còn có rất nhiều thiện hữu tri thức, bằng trí tuệ của mình, bằng phước đứctài lực của mình với tinh thần hộ trì chánh giới...
(Xem: 18637)
Khi giới sư đăng đàn truyền trao U Minh Giới cho vong linh. Chúng giới tử đại vị cho tiên hương linh của mình mà thay họ phụng thỉnh Tam Bảo, thọ nhận Giới pháp...
(Xem: 16516)
Nghi thức tuần chiếu trong Giới Đàn Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ thời Phật còn tại thế, Đức Thế Tôn theo thông lệ cứ mỗi năm ngày, Ngài đi tuần phòng của Tăng chúng.
(Xem: 19267)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 20465)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19211)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 45342)
Pháp Sự Khoa Nghi (3 tập) Soạn dịch giả: HT Thích Huyền Quang - Chùa Quang Thiện, California, USA - Ấn hành 2002
(Xem: 16299)
Nghìn nhà một bát, muôn dặm cô thân, Thần thông ứng cúng xa gần, Diệu dụng hóa duyên đây đó...
(Xem: 16000)
Thành ngữ Việt Nam có câu: “Thờ thì dễ, giữ lễ thì khó”, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu đề tài ý nghĩatác dụng của lễ bái.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant