Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. Phật nói kinh Trang Nghiêm Vương Ðà La Ni chú

31 Tháng Năm 201100:00(Xem: 16241)
10. Phật nói kinh Trang Nghiêm Vương Ðà La Ni chú

BỘ MẬT TÔNG (Bốn Tập)
Dịch Giả: Tỳ Khưu Thích Viên Đức

D. TẬP BỐN
KINH MẠT PHÁP NHẤT TỰ ÐÀ LA NI

PHẬT NÓI KINH TRANG NGHIÊM VƯƠNG ÐÀ RA NI CHÚ
(MỘT QUYỂN)
Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nghĩa Tịnh phụng chiếu dịch Phạn ra Hán.
Sa Môn Thích Viên Ðức dịch thành Việt văn.

Như thật tôi nghe, một thời Ðức Bạt Già Phạm ở tại núi Bố Ðạt Lạt Ca. Vì các trời người tất cả đại chúng diễn nói pháp yếu, xem khắp mười phương dùng diệu âm thinh dạy Quán Tự Tại Bồ TátDiệu Cát Tường Bồ Tát rằng: Này thiện nam tử! Có kinh tên là “Nhứt Thiết Như Lai Sở Hộ Quán Sát Chúng Sanh Thị Hiện Phật Sát Trang Nghiêm Vương Ðà Ra Ni”. Ta lúc xưa kia khi mới phát tâm ở chỗ Hoa Quang Hiển Hiện Như Lai, cũng là chín mươi câu chi chúng sanh (90 trăm ức) một phen nghe được pháp mầu này đây thảy đều đắc phần trí huệ Như Lai, được nhờ thọ ký làm Phật trong các cõi Phật sát. Ta trong số đó được Phật thọ ký. Này thiện nam tử! Ta lấy Phật nhãn xem thấy quá khứ ba vạn Như Lai, vì các chúng sanh nói pháp yếu này. Ông Quán Tự TạiDiệu Cát Tường ở nơi trong thời thuyết pháp khi ấy cũng đều là bậc lãnh đạo Thượng Thủ.

Bấy giờ Thế Tôn nói lời ấy rồi, hiện tiền đại chúng Bồ Tát, Thanh Văn, thính giả đến nghe đều phát lòng tin cúng dưòng Ðức Phật.

Bấy giờ vô lượng trăm ngàn Câu chi na khố đa chúng sanh đều được thọ ký cũng đắc Bồ Tát Thắng Diệu Ðẳng Trì, bệnh khổ thảy trừ, Cái (1), Triền (2) tiêu diệt, sở nguyện đầy đủ, căn lành thành tựu, dung nhan đoan chánh tài bảo giàu có. Quốc Vương, đại thần, các loài chúng sanh thảy đều vui mừng! Niệm huệ thần thông đều được đầy đủ, đối Phật Pháp Tăng được tín bất hoại, thọ mạng sắc lực có đại oai thế, không có các khổ thương xa lìa ghét phải gặp gỡ.

Nếu có trai lành và người gái tín hay đối kinh này, năm vóc sát đất, sanh lòng hy hữu, lấy các hương hoa chuỗi ngọc phan cái, cung kính cúng dường, qui y khen ngợi đọc tụng thọ trì.

Nếu mình viết chép hoặc bảo người chép, vô lượng công đức đều được thành tựu, thấy kẻ thọ trì sanh lòng kính tín thì hiện thân này các đức đầy đủ, đều đắc Bồ Tát Thắng Diệu Ðẳng Trì, hơi miệng thường ra mùi thơm chiên đàn, tròng mắt sáng tịnh như lá sen xanh, ở trong ngày đêm thấy Phật hình tượngđại Bồ Tát. Nếu có chướng tội, nghiệp ngũ vô gián, thảy đều tiêu diệt, chư Thiên vệ hộ, khi mạng gần chung thấy Phật, Bồ Tát, tâm không tán loạn, quyết được vãng sanh về cõi Cực Lạc. Ta cùng người đó thọ ký làm Phật, kia thấy thân ta cung kính cúng dường, đối diện Bồ đề tâm không nghi hoặc. Nếu lại có người đối pháp môn này đọc tụng thọ trì, cúng dường cung kính, nếu tự mình chép hoặc bảo người viết cho đến được nghe tên kinh điển này, phải biết người đó tức là Bồ Tát nên cần cúng dường. Nếu lại người này do nghiệp ác trước, tài mạng sắc lực trong ngoài tư sanh thảy đều ngắn ít, các việc mong cầu không được toại lòng, thân ái chia lìa, cõi nước hoang tàn, vương giặc nạn suy. Do sức kinh này hiện thân thọ nhẹ, hoặc tạm đau đầu, hoặc được áo xấu, hoặc là cơm dở, hoặc gặp mắng chửi, và các hủy nhục thì nghiệp chướng kia thảy đều tiêu diệt. Này thiện nam tử! Kia người trì kinh nên sanh niệm này: Ta xưa lưu chuyển trong biển sanh tử, đối các hữu tình làm nhiều ác tội, ngày đêm tăng trưởng tạo nghiệp không lành, nay thời rõ biết, không dám che giấu, phát lộ nguồn tội, thành tâm sám hối. Ðối Phật Pháp Tăng lòng tin bất hoại.

Nếu lại có người từng ở trong Phật Pháp, Tăng Bảo, Ðộc Giác, Thanh Văn, cha mẹ, sư trưởng, làm các nghiệp ác, quả báo áo cơm đều phải thiết hụt. Do sức kinh này nghiệp ấy trừ diệt, cơm áo đầy đủ.

Nếu lại người kia, có nghiệp thọ khổ, chốn Nại Lạc Ca (địa ngục) thương khổ xa lìa, sống đời mù đui, không căn hai căn, nghiệp báo chín muồi, cũng đều tiêu diệt.

Lại nữa, người kia do sức nghiệp ác, đời trước tật đố, sân si hờn giận, sẽ đọa vào cõi Diêm Ma Vương giới, súc sanh ngạ quỷ trong các ác thú. Do sức kinh này đã có ác nghiệp đều được trừ diệt, hết thảy phước đức đều được tăng trưởng.

Này thiện nam tử! Nếu nơi chỗ nào có pháp môn này, thì những người kia thường nhờ kinh này mà được ủng hộ, công đức đầy đủ, sở cầu viên mãn, thường thọ giàu vui nghiệp ác tiêu trừ, không có hoạnh tử và các ác mộng, bịnh khổ chẳng có, đấu chiến thường thắng, mạng thọ sống lâu, sắc lực đầy đủ có đại oai thế. Tất cả thế gian người và thiên, long các quỷ thần thảy đều tùy ý chuyển, không gặp ác độc tai hoạn nước lửa, cho đến do nhờ sức trì Thần chú, thường được chư Phật trao tay thọ ký.

Nếu kẻ trai lành và người gái tín được nghe Thần chú như thế mà lại thọ trì đọc tụng hoặc tự viết chép hoặc dạy người chép, cung kính cúng dường, thì kẻ trai lành và người gái tín đều được công đức như trước đã nói.

Bấy giờ Thế Tôn nói lời ấy rồi quả đất lớn này bỗng nhiên rung chuyển sáu lần chấn động. Các đại chúng đây đem diệu hương hoa, hương thoa hoa tràng, tàn lọng, y phục, thù thắng nhiệm mầu dâng lên Thế Tôn, đồng thinh xướng rằng: Lành thay! Lành thay! Chúng con làm sao nghe được Thần chú, Như Lai tuyên nói. Lúc ấy Thế Tôn liền nói chú rằng:

“Nam Mô tát bà đát tha yết đa nẫm, đát điệt tha, bột đệ, tô bột đệ, lô ca Tỳ Lô kế, lô ca phạt để hiết lang đế, tát đỏa a phạt lô hiết nê, tát bà, đát tha yết đa a đề sắt sĩ đế, tát bà a xa bát rị bô rị nê, tu đinh đạt lệ, nại la đề bà bố thị đế, đát tha yết đa thận nhã na đạt đệ, đát tha yết đa a đề sắc trá nê noa, tát bà lô ca tốc xí bà bạt đổ, tát bà hiết ma bát rị xoa tà giả, ma ma a mộc hiết tả. Ngã đệ tử … (xưng tên) tát bà tát đỏa nan giả, hạt lạt xoa bà bạt đổ, đát tha kiết đa a đề sắc trá nê noa, tóa ha.” (108 lần)

Này thiện nam tử! Thần chú này đây ba vạn Như Lai đồng tuyên nói và cùng gia hộ. Ta nay cũng lại nói Thần chú này vì muốn lợi ích tất cả hữu tình khiến được an vui thường làm ủng hộ, trừ dứt bịnh khổ sanh các nước Phật.

Nếu lại có người nghĩ như thế này, như Phật đã nói công đức Thần chú. Ta nay làm sao để mà thành tựu, tức mỗi sáng chiều tắm rửa sạch sẽ, đối với hết thảy hữu tình chúng sanh khởi đại từ bi, phát lòng lân mẫn, trừ bỏ tật đố, kiêu mạn, giận hờn, một lòng cung kính đối trước tượng Phật, hương quý hoa thơm, đồ ăn thức uống rộng bày cúng dường, lễ mười phương Phật, tâm cầu sở nguyện, tụng Thần chú này đủ trăm lẻ tám biến (108) nơi mỗi mỗi biến, chú mỗi cái hoa, lấy mỗi mỗi hoa cúng dường nơi Phật. Người này tức liền tùy sở nguyện cầu thảy đều như ý, cũng ở trong mộng thấy được chư Phật. Khi mạng gần chung thấy Phật, Bồ Tát, sau khi bỏ thân quyết được vãng sanh Cực Lạc thế giới, thọ mạng sắc lực thảy đều đầy đủ. Tất cả oán cừu đều sanh hoan hỷ.

Khi nói chú này, sáu vạn hữu tình hết thảy đều được vô sanh pháp nhẫn, vĩnh trừ các chướng, sở nguyện đầy đủ.

Khi đức Thế Tôn nói kinh này rồi, Quán Tự Tại Bồ Tát, Diệu Cát Tường Bồ Tát, hết thảy đại chúng nghe Phật Ngài nói hoan hỷ phụng hành.

___________________________

(1) CÁI: Năm món Cái:

1. Tham dục: Lòng tham vô đáy.
2. Sân nhuế: Giận hờn.

3. Thùy miên: Tâm hôn trầm không làm chi được.

4. Trạo hối: Trong tâm có sự ăn năn xao động.

5. Nghi: Ðối với việc gì cũng mờ ám, không biện biệt được chơn ngụy, tâm dụ dự không quyết đoán.

(2) TRIỀN: Mười Triền:

1. Vô tàm: Có tội lỗi mà không biết hổ.
2. Vô quý: Có tội lỗi người khác biết được mà không thẹn.
3. Tật: Thấy người hiền đức, giàu sang sanh lòng ghen ghét.
4. Xan: Keo bẩn không bố thí.
5. Hối: Ăn năn những tội lỗi đã làm.
6. Thùy miên: Hôn mê không tỉnh giác được thân tâm.
7. Ðiệu cử: Tâm niệm xao động.
8. Hôn trầm: Thần thức hôn mê không rõ biết chi cả.
9. Sân hận: Ðối trước nghịch cảnh hay sinh lòng sân hận.
10. Phú: Che giấu tội ác.
KINH ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG KINH TRUNG 
VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BỔN NHẤT TỰ ÐÀ RA NI (QUYỂN 2)
Ðời Ðường, Bắc Ấn Ðộ nước Ca Thấp Di La
Ngài Tam Tạng Bảo Tư Duy dịch Phạn ra Hán.
Sa Môn Thích Viên Ðức dịch ra Việt văn.

Tôi nghe như vầy: Một thời Ðức Phật ở tại cõi Trời Tịnh Cư, nơi đạo tràng Ðại Bảo Trang Nghiêm, có các đại Bồ Tát cùng chư Thiên đại chúng đều đến nhóm hội.

Bấy giờ đức Thế Tôn mở lòng đại từ đại bi, ở trong hội ấy nói khắp tất cả chư Thiên, đại chúng rằng: 

- Các ngươi lắng nghe! Ngài Văn Thù Sư Lợi đồng tửPháp luân chú, vì muốn cứu độ cho chúng sanh, hết thảy Như Lai đều có tâm bí mật khai thị hiển thuyết. Nếu có người trì tụng ta sẽ thọ ký cho người ấy, lúc trì tất cả các chú khác mới mau hiệu nghiệm viên mãn, tất cả việc làm đều được thành tựu không gì hơn. Các ngươi phải biết Ðà Ra Ni này là Ðại Thần chú Vương, trong các chú có đại thần lực.

- Nếu có người Thiện nam, Tín nữ nào hay thọ trì, thì Ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử Bồ Tát sẽ đến ủng hộ, hoặc lúc tỉnh giấc, hoặc ở trong mộng, Ngài hiện thân tướng và hết thảy các điềm lành, có công năng khiến cho chúng sanh đều vui mừng.

 Các Thiện nam tử! Chú Vương này còn thu nhiếp được Ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử Bồ Tát, huống nữa các Bồ Tát khác, ở thế gianxuất thế gian, cùng tất cả Hiền Thánh v.v…

Lại nữa, Thiện nam tử! Thần chú này có các công năng tiêu trừ tất cả tai chướng, tất cả mộng ác, tất cả oán địch, tất cả tội ngũ nghịch, tội tứ trọng, thập ác và các nghiệp tội nặng, tất cả tà ác, các chú pháp không lành và có công năng diệt trừ hay thành biện tất cả việc lành, được đại tinh tấn. Nên biết các chú tại thế và xuất thế thì chú này thù thắng hơn hết, là tâm của chư Phật, hay khiến tất cả sở nguyện đều được viên mãn.

Nếu có chỉ năm màu, kết Thần chú này thành dây, đeo nơi cổ sẽ ủng hộ được thân mình, diệt trừ tai chướng, khiến các nguyện đều được viên mãn, không gì sánh bằng, liền nói Thần chú rằng:

“ÚM XỈ LÂM”

Này các Phật tử! Chú này có công năng tiêu diệt tất cả tà ác, vọng lượng và các loài quỷ. Là Pháp kiết tường (an lành) của hết thảy chư Phật, có công năng thành tựu tất cả Thần chú. Người tụng chú này hay khiến cho chúng sanh phát lòng đại từ, hay khiến cho chúng sanh phát lòng đại bi, hết thảy chướng ngại đều được tiêu diệt, chỗ mong cầu ước nguyện đều được đầy đủ, dù khi chưa làm phép tắc cũng được tự ý thành biện các việc. Nếu phát lòng Vô thượng đại Bồ đề, tụng chú này một biến có năng lực gia hộ tự thân, nếu tụng hai biến có năng lực gia hộ đồng bạn, nếu tụng ba biến có năng lực gia hộ mọi người trong nhà, nếu tụng bốn biến có năng lực gia hộ mọi người trong một thành, nếu tụng năm biến có năng lực gia hộ mọi người trong gia hộ mọi người trong một nước, nếu tụng sáu biến có năng lực gia hộ mọi người trong một thiên hạ, nếu tụng bảy biến có năng lực gia hộ mọi người trong bốn thiên hạ. Nếu mỗi sáng tụng chú này một biến trong nước rửa mặt thì hay khiến người thấy sanh lòng vui mừng, chú nơi hương thơm, thoa nơi áo mặc cũng khiến mọi người thấy đều sanh lòng vui mừng.

- Nếu bị đau răng, chú trong cây Lan mà nhâm nhai đó, thì răng đau liền bớt.

- Nếu có người nữ bị sản nạn (nạn sanh đẻ) lấy rễ cây A Tra Lô Sa Ca hoặc rễ cây Lan Già Lợi Ca (cây Ngưu Tất) chú vào đó bảy biến, lượt trùng lấy nước sạch, hòa vào trong rễ cây ấy, thoa nơi sản nữ hay nơi rún, ấu nhi liền sinh ra dễ dàng.

- Hoặc có người nam bị trúng tên, đầu sắt nhọn của mũi tên đâm vào gân xương, nhổ ra không được, lấy bơ mười năm, ba lượng, tụng chú 108 biến, thoa nơi chỗ bị tên độc và ăn bơ đó, mũi tên có sắt độc kia liền ra.

- Nếu người đàn bà năm năm cho đến hai mươi năm, ba mươi năm mà chẳng có con trai hay con gái, hoặc tự có bịnh, hoặc chồng của người đàn bà ấy bị bịnh quỷ mị hay các thứ bịnh khác, hoặc bị nhằm thuốc độc, lấy bơ để lâu trên mười năm, năm lượng, lấy lông của đuôi con công, một lượng, bỏ vào trong bơ ấy, tụng chú 21 biến, đem nghiền thật nhỏ, rồi bỏ vào chưng nấu chín, lấy một lượng đường phèn và ba trái A Lê Lặc lớn, bỏ hột lấy vỏ, hòa chung với nhau lại tụng chú 108 biến, thường mỗi buổi sáng bụng đói uống thuốc ấy vào, uống bảy ngày như vậy, liền có con trai hay con gái.

- Nếu đau đầu, lấy lông cánh của con chim, tụng chú này bảy biến, phết chỗ đau nơi ấy tức bịnh liền lành.

- Nếu bị bịnh rét, một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày, hoặc bị rét kinh niên, lấy thuần sữa tốt, nấu chung với cháo, trộn vào một lượng bơ, tụng chú 108 biến cho người bị bịnh ăn, tức bịnh liền dứt.

Này các Thiên nam tử! Ðây chỉ tóm lược mà nói, nếu muốn bào chế các thứ thuốc để uống thì trước cần phải chí tâm tụng chú 21 biến, sẽ mau được như nguyện.

Lại nữa! Các Thiện nam tử! Nếu có tất cả chúng sanh, bị quỉ Phi đầu bắt giữ thì mình lấy tay thoa nơi mặt họ, tụng chú 108 biến, mình làm tướng oai nộ, liền lấy tay trái kiết ấn Bổn sanh (ngón tay cái co vào trong lòng bàn tay, sau dùng bốn ngón kia nắm chặt ngón cái lại thành một hình cầm cú) liền tự hét nộ mắt chăm nhìn và tụng chú mà xem bịnh thì bịnh liền lành.

- Nếu người bị các loài quỉ hành bịnh, mình tụng chú vào trong tay phải 108 biến, thiêu An tất hương xông nơi tay, tay trái kiết ấn Bổn sanh (ấn như trên) tay phải thoa nơi đầu của người bị quỉ hành bịnh, bịnh liền dứt.

- Nếu có oán địch cùng các ác mộng và các việc sợ hãi, làm thân tâm bất an, lấy chỉ bảy màu hay năm màu, kết Thần chú này thành dây hoặc thành hình hoa sen, hoặc thành hình bánh xe Pháp luân, hoặc thành hình Kim Cang xử, tụng chú 108 biến, thiêu An tất hương, xông dây đó cho đến bảy ngày, đeo vào nơi cổ, tất cả tai chướng đều được tiêu tán. Hoặc lấy ngưu huỳnh nghiền nhỏ làm mực, viết trên giấy sạch, hoặc là lụa trắng, vẽ hình đáng sợ nơi bốn bên, hãy viết chữ “ÚM XỈ LÂM” chung quanh, hoặc vẽ hình hoa sen, hoặc hình bánh xe Pháp luân, hoặc chữ vạn, hình ngư ốc, hình Kim Cang móc câu, bình Cam lồ báu, vẽ chung quanh ấy, tụng chú bảy biến thì chỗ sợ hãi liền tiêu trừ.

- Này các Thiện nam tử! Nếu muốn đi qua các chỗ hiểm nạn sư tử, hổ lang, độc xà, oán tặc tất cả chỗ nạn ấy, nên cần dốc hết thân tâm cho thanh tịnh, không được gần gũi người nữ, không được ăn ngũ tân (rượu, thịt, hành, hẹ, nén, tỏi …) đối với chúng sanh, phát tâm đại từ bi, nhất tâm tụng chú 49 biến thì các oán ác tự nhiên thối tán, dầu có gặp đi nữa cũng đều sanh tâm vui mừng.

Này các Thiện nam tử! Thần chú này đối với tất cả chúng sanh, hoặc ở một kiếp, hoặc vô lượng kiếp, cho đến danh tự không thể nghe được, huống nữa chuyên tâm tụng niệm, giả sử của bảy báu như: voi, ngựa đầy dẫy cõi Diêm Phù Ðề này, cũng là pháp hoại diệt của thế gian.

Ðà Ra Ni Thần chú này, khiến chúng sanh hiện tại và tương lai, thường được an ổn, hay làm quyến thuộc với các Như Lai và các chúng đại Bồ Tát. Nếu vì bản thân mình hay bản thân người khác thì các sở nguyện cũng đều được như ý. Vậy cho nên phải ân cần khao khát, rất khó gặp, không được khinh mạn, hoặc sanh tâm nghi ngờ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1370)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1401)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1105)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1270)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1739)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1682)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1573)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1153)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1537)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1500)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1407)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1463)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1787)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 2137)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1506)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1158)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1496)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2171)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1543)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1627)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1463)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 3084)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1457)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1465)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1789)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1762)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1699)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1549)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2719)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1684)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1668)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1483)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1510)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1679)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1612)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1492)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1484)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1562)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2260)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1596)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1576)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1711)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1918)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1596)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1471)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1713)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1484)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1790)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2465)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1533)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 2034)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1756)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1824)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1680)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 2007)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1744)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1510)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1773)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1634)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1605)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant