Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

05. Ý Nghĩa của Sự Không Tranh Biện Trong Phật Giáo

23 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 10681)
05. Ý Nghĩa của Sự Không Tranh Biện Trong Phật Giáo
PHẬT GIÁO
TRONG THẾ GIỚI TÂN TIẾN NGÀY NAY
Sự canh tân của Phật giáo từ Đông sang Tây
Hoang Phong biên soạn và dịch

Ý NGHĨA CỦA SỰ KHÔNG TRANH BIỆN TRONG PHẬT GIÁO

 Các kinh sách, đặc biệt là kinh sách Nam tông, ghi chép rằng vào thời kỳ của Đức Phật không phải chỉ có một trào lưu duy nhấtPhật giáo, trái lại Đức Phật đã sống trong một thời kỳ vô cùng phong phú gồm nhiều truyền thống triết họctín ngưỡng khác. Có rất nhiều vị Thầy lớn tuổi và nổi tiếng hơn cả Phật, chẳng hạn như vị thầy Bà-la-môn Jina Mahavira mà kinh sách Phật giáo thường nói đến dưới danh hiệu là Nigantha Nathaputta.

Trong bối cảnh đặc biệt của sự phát triển cao độ các trào lưu tinh thần của nước Ấn vào thời bấy giờ, sự tranh biện giữa những nhà lãnh đạo và các người chủ trương các học thuyết cũng hết sức cởi mở, rộng rải và tự nhiên một cách lạ thường. Bối cảnh đó đã được ghi chép trong vô số kinh điển Phật giáo và ngoài Phật giáo. Vậy vị trí của Phật giáo trong bối cảnh ấy như thế nào, Đức Phật đã dạy các đệ tử của Ngài phải giữ thái độ như thế nào trước những tranh biện phức tạpthuần lý mang ít nhiều màu sắc tín ngưỡng ấy?

Các học phái và trào lưu ngoài Phật giáo

Kinh sách (trong số này có kinh Samannaphala-sutta) thường nói đến sáu vị Thầy quan trọng hơn hết, các vị thầy ấy không nhất thiết chủ trương một tôn giáo theo định nghĩa thông thường, nhưng đại diện cho nhiều trào lưu triết học dựa vào sự biện luận duy lý hoặc dựa vào vài sắc thái tín ngưỡng. Những trào lưu ấy được phân loại như sau :

- Trào lưu thứ nhất do vị Thầy Purana Kassapa chủ trương. Trào lưu này tin rằng không có sự thưởng phạt nào cả đối với các hành vi thực thi, tức không có một hậu quả nào trong các hành vi duy ý. Vì vậy trào lưu hay chủ thuyết này chủ trương tính cách ngẫu nhiên của vạn vật, có nghĩa là mọi sự vật và biến cố xảy ra một cách tình cờ, ngẫu nhiên và ngẫu biến, không lệ thuộc vào điều kiện. Kinh sách Phật giáo gọi chủ thuyết này là addhiccasamuppanna-vada, (theo Trường Bộ Kinh – Digha-Nikaya).

- Trào lưu thứ hai do vị Thầy Makkhali Gosala, sống cùng thời đại với Đức Phật, chủ trương thuyết định mệnh, tiền định hay số mệnh, và cho rằng những hành vi đạo hạnh hay độc ác không có ảnh hưởng gì đến việc giải thoát con người. Sự cố gắng và hành vi của con người chẳng có hiệu quả gì trong chuỗi dài hiện hữu của họ. Họ chỉ cần chịu đựng hết cái chuỗi dài đó cho đến khi nào nó chấm dứt một cách tự động, khi ấy con người sẽ đạt được sự giải thoát cuối cùng. Chuỗi dài hiện hữu của mỗi cá thể đã được quyết định từ trước, không thay đổi được. Tuy nhiên trào lưu này lại chủ trương có sự biến cải và thăng tiến tuần tự cho mỗi lần tái sinh, từ dạng thể thấp đến dạng thể cao hơn, cho đến khi nào chấm dứt, (theo Trường Bộ KinhDigha-nikaya).

- Trào lưu thứ ba do vị Thầy Ajita Kesakambali chủ xướng, dựa vào thuyết tự hủy, tức là mọi thứ, mọi vật thể tự tiêu tan hay tan biến hết chẳng còn gì cả (Tây phương gọi là annihilism). Kinh sách Phật giáo gọi chủ thuyết này là ucceda-vada. Chủ thuyết hư không hay hư vô trên đây được phổ biến rộng rãi trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế và chia ra nhiều chi phái, nhưng tất cả đều cho rằng sự tu tập chẳng có ích lợi gì, sự hiểu biếtđạo hạnh chẳng giữ một tầm quan trọng nào nơi mỗi cá thể. Theo các chủ thuyết này, con người gồm tứ đại : đất, nước, lửa và khí. Khi chết, mỗi thành phần vừa kể sẽ quay về bản thể chung, tương ứng với chúng trong thiên nhiên : đất với đất, nước với nước, v.v., các chức năng giác cảm thì hội nhập với không gian. Mỗi cá thể sẽ bị xoá bỏ bằng cái chết, và sau cái chết sẽ chẳng còn gì cả.

- Trào lưu thứ tư chủ trương thuyết bất diệt gọi là sassata-vata, do nhiều vị thầy khác nhau chủ xướng, trong số đó vị nổi tiếng nhất là Pakhuda Kaccayana. Theo chủ thuyết này con người được cấu hợp bởi bảy thành phần : đất, nước, lửa, khí, thích thú, đau đớn và sức sống (jiva). Bảy thành phần riêng rẽ đó không sinh cũng không diệt, không khởi thủy cũng không chấm dứt, chúng trường tồn một cách độc lập, không tác động lẫn nhau, không thay đổi, không biến hoá cũng không thăng tiến, cứ giữ nguyên như thế đến vô tận, (theo Trường Bộ Kinh – Digha-nikaya).

- Trào lưu thứ năm thật ra bao gồm nhiều trường phái khác nhau và chủ trương một hệ thống giáo lý theo đó thế giới này là sự sáng tạo của một đấng tối thượng, kinh sách Phật giáo gọi đấng tối thượng này là issara-nimmana-vada. Các trường phái khác nhau đưa ra các định nghĩa ít nhiều khác nhau về Đấng Sáng tạo này và gọi bằng nhiều danh xưng khác nhau : Maha-Brama, vị Chiến thắng, vị Chủ thế giới, Tác giả, vị Sáng tạo, vị Tác tạo định mệnh, vị Tự quản, người Cha của những kẻ đã được sinh ra và sẽ được sinh ra…Các vị thầy chủ trương các hệ phái này là các vị : Acchariyas, Tittiriyas, Chandokas, Chandavas, Brahmacariyas…, đồng thời tên của các vị thầy cũng được đem ra dùng để gọi các hệ phái do các vị ấy chủ xướng.

- Trào lưu thứ sáu là một trào lưu khá lạ lùng, cũng được truyền bá trong thời kỳ của Đức Phật. Vị Thầy được biết đến nhiều nhất trong trào lưu này là Sanjaya Bellatthiputta, ông không bao giờ trả lời những câu hỏi được nêu lên mà luôn luôn tránh né, dùng luận cứ bất khả tri (không thể hiểu được sự tuyệt đối) để tránh đối đầu, chẳng những với các câu hỏi về các chủ đề liên quan đến đạo đức và siêu hình, mà còn tránh né cả các câu hỏi mang tính cách đại cương. Theo Sanja Bellatthiputta, những câu hỏi và những câu trả lời rốt ráo và đích thực đều liên quan đến những gì không thể xác định được, không thể diễn tả được và không thể giải thích được. Người ta thường ví ông như một cái kim luồn qua hai mép vải.

Thái độ của Phật

Không biết các kinh sách Nam tông có ghi chép và diễn tả đầy đủ tất cả các chủ thuyết thời bấy giờ hay không, nhưng đều cho biết một cách minh bạch rằng Đức Phật không chủ trương ngẫu biến, định mệnh, hư vô, bất diệt, sáng tạo, bất khả tri. Điều đáng chú ý hơn hết là ngay trong tập đầu tiên của Kinh Tạng (tức kinh Brahmajala-sutta) đã nêu lên sự kiện Phật bác bỏ 62 chủ thuyết của các vị thầy đương thời. Trong số 62 chủ thuyết ấy có 23 chủ thuyết chủ trương cái ngã (atman), còn gọi là cái tôi, cái ta, và trong số các chủ thuyết còn lại có nhiều chủ thuyết chủ trương sự bất diệt hay trường tồn.

Phật nói rằng : « Bất cứ một quan điểm nào trong số 62 quan điểm [đã đề cập] đều có thể hiển hiện trong đầu của bất cứ ai mang ý niệm sai lầm về cá tính con người (sakkaya-ditthi), nhưng khi nào khái niệm sai lầm này không có, sẽ không còn có sự bám víu vào các quan điểm ấy nữa » (kinh Sammyutta-nikaya). Câu nói trên đây của Phật có nghĩa là gì? Có nghĩa là Phật muốn ám chỉ đến cái vô minh trong mỗi cá thể con người, cái vô minh về sự hiện hữu của cái ta, cái tôi, cái ngã. Con người diễn đạt những thứ ấy qua cái vô minh của mình và gán cho cá thể con người đủ mọi loại đặc tính như trường tồn, hư vô, an bài, định mệnh, hậu quả hay tác phẩm của sự sáng tạo thiêng liêng v.v… Những diễn đạt ấy sẽ làm phát sinh những quan điểm khác nhau. Tệ hơn nữa là mỗi cá thể chẳng những tự diễn đạt những quan điểm ấy cho riêng mình, mà còn tìm cách áp đặt cho kẻ khác. Sự áp đặt cho kẻ khác những diễn đạt về cái tôi, cái ta, cái ngã theo quan điểm của mình chính là nguồn gốc của mọi sự tranh biện.

Phật cảnh giác chúng ta phải tránh sự tranh biện ấy vì ba lý do như sau :

- lý do thứ nhất : các quan điểm khác nhau, sự cả tin hay đức tin của mỗi người và sự biện luận thuần lý sẽ không có ích lợi gì cả, không thiết thực và không giúp ta nhìn thẳng vào vấn đề, do đó Phật dạy không nên quan tâm đến những thứ như thế .

Trong Trung Bộ Kinh (kinh Culamalunkyaputta-sutta), có kể chuyện về một đệ tử của Phật tên mà Malunkyaputta như sau. Malunkyaputta đang ngồi thiền định một mình bổng nhiên những thắc mắc sau đây vụt hiện ra trong đầu : « Vũ trụ trường tồn vô hạn hay không trường tồn vô hạn ? Vũ trụgiới hạn hay không có giới hạn ? Nguyên lý của sự sống thuộc chung một thứ với thân xác hay là nguyên lý sự sống là một thứ riêng biệt và thân xác là một thứ gì khác ? v.v. ».

Malunkyaputta liền đến tìm Đức Phật để hỏi. Đức Phật giảng cho Malunkyaputta như sau : « Này Malunkyaputta, mặc dù có một quan điểm theo đó vũ trụ vô tận và có một quan điểm [khác] theo đó vũ trụ không vô tận, nhưng trước nhất phải hiểu rằng có sinh, có già, có chết, có khổ, có than khóc, có đớn đau, xót xa và tuyệt vọng. [Đối với] Ta, Ta [chỉ] giảng [cho con] về sự chấm dứt những thứ ấy trong thế giới này, trong chính sự sống này. Vì thế, này Malunkuyaputta, hãy giữ lấy trong tâm những gì Ta giảng, đúng như Ta đã giảng, và những gì Ta không giảng, đúng như Ta không giảng…». Phật trả lời cho Malunkyaputta từng chủ đề một, nhưng chỉ trích ra đây một câu tiêu biểu liên quan đến vũ trụ. Vì tính cách lập đi lập lại triền miên của kinh sách, nếu trích ra hết sẽ làm cho bài viết quá dài.

-lý do thứ hai : Phật giúp ta tránh khỏi những biện luận duy lý hay thuần lý đưa đến những quan điểm đối nghịch làm phát sinh ra những tranh luận bất tận. Các chủ thuyết siêu hình thông thường đưa đến những giáo điều gò bó, cần phải có sự cả tin để chấp nhận, hoặc đưa đến việc tìm tòi những luận cứ đủ loại có tính cách chống đỡ hay bài bác. Các luận cứ ấy không phải là những kinh nghiệm thực tiễn do mỗi người thực hiện được, vì thế không thể giúp cho ta đánh giá luận cứ này đúng hơn một luận cứ khác.

Khoa học tiến triển dựa trên giả thuyết, khi một giả thuyết còn đứng vững chưa bị đã phá thì những hiểu biết do giả thuyết ấy mang đến vẫn còn có giá trị, khi một giả thuyết bị xụp đổ thì những hiểu biết dựa trên giả thuyết ấy cũng mất giá trị theo. Trên phương diện biện luận thuần lý, một quan điểm do một cá nhân đưa ra cũng chỉ là một quan điểm như những quan điểm khác. Nếu ta bám víu vào một quan điểm nào đó sẽ đưa đến sự tranh luận hay biện luận bất tận. Nếu như sự bám víu ấy trở nên quá mạnh sẽ có thể đưa đến sự phân biệt và kỳ thị, cố chấp và thiếu khoan dung, hậu quả đưa đến là sự xung độtchiến tranh tôn giáo như đã từng xảy ra trong lịch sử Phương Tây.

-lý do thứ ba : Phật dạy ta giữ một thái độ «trung hoà» hay đúng hơn «đứng ra ngoài mọi quan điểm», không để cho bất cứ một quan điểm nào gây trở ngại cho sự thăng tiến nội tâm của ta. Không phải chính các quan điểm «đứng ra» gây trở ngại, mà chính sự bám víu của ta vào quan điểm này hay quan điểm khác đã trực tiếp cản trở ta trên đường thăng tiến tâm linh. Sự kiện bám víu sẽ tạo ra vô minh làm cho tâm thức u mê.

Bám víu vào bất cứ một quan điểm nào (dhamma tanha) là một điều Phật cấm đoán. Vượt thoát mọi quan điểmsự Giải thoát. Một trong những thể dạng của kỹ thuật ngồi thiền là không tìm cách «giải thích» mọi sự vật và biến cố, đồng thời cũng không diễn đạt những nhận biết của giác cảm trên thân xác và những tư duy hiển hiện trong tâm thức, và đó cũng là cách ứng dụng vào thực tế lời giảng của Phật trên đây : đứng ra ngoài mọi diễn đạt và mọi quan điểm. Giác cảm là giác cảm, không có sự khác biệt giữa một giác cảm thích thú và một giác cảm khổ nhọc hay bấn loạn. Không có sự khác biệt giữa một quan điểm gọi là «đúng» và một quan điểm gọi là «sai», một quan điểm là một quan điểm.

Sau đây là một thí dụ cụ thể hơn. Qua sự lý luận thông thường, ta cho rằng quan điểm chủ trương «có sự hiện hữu của cái ngã», tức tôi có cái ngã của tôi, là một quan điểm sai (miccha ditthi), quan điểm trái ngược lại tức là vô ngã, có nghĩa là không có cái tôi (anatta vada) sẽ phải là một quan điểm «đúng». Nhưng thật ra nên hiểu như thế này: tin rằng không có sự hiện hữu của cái ngã, hay tin là đúng quan điểm không có cái ngã đều «không đúng», giản dị chỉ cần tránh đừng tin là có cái ngã. Sự tế nhị là ở chỗ phái tránh sự cả tin là có cái ngã. Tin hay không tin là hai thái cực của nhị nguyên, hai thái cực ấy sẽ được diễn đạt thành hai quan điểm đối nghịch, tránh là đứng ra ngoài hay lên trên cả hai quan điểm. Đấy là ý nghĩamục đích của việc tránh sự tranh biện trong Phật giáo.

Những kinh nghiệm thực hiện trong Phật giáo

Phật giáo tránh những quan điểm dựa vào sự biện luận thuần lý và những diễn đạt không phát xuất từ kinh nghiệm bản thân, nhất là những biện luận «siêu hình», nhưng không phải vì thế mà Phật giáo không đạt được những hiểu biết siêu việt. Kinh nghiệm do bản thân đối với Phật giáo không phải chỉ dựa trên sự cảm nhận của giác cảm và tâm thức mà còn dựa trên sự hiểu biết «siêu giác cảm», «siêu tâm thức», một sự hiểu biết trực giáctối thượng, nhờ vào sự tu tập lâu dài, chẳng hạn như sự nhận biết về các kiếp trước, về sự tái sinh sau khi chết, sự nhận biết bản thể đích thực của thế giới này, về bản chất của mọi vật thể và biến cố. Những kinh nghiệm trực giáctối thượng đó chính là mục đích của việc tu tập Phật giáo.

Trong kinh Sangarava-sutta, thuộc Trung Bộ Kinh, Đức Phật phân biệt ba loại thầy chủ xướng ba xu hướng tâm linh khác nhau, liệt kê như sau : xu hướng thứ nhất có tính cách thần khải (tiết lộ bằng thần cảm) (anussavika), sự hiểu biết thần khải dựa trên kinh sách thiêng liêng gọi là thánh kinh, chẳng hạn như trường hợp các vị thầy Bà-la-môn, nhất là thuộc trường phái Phệ đà (Veda). Các vị thầy thuộc xu hướng thứ hai dựa vào những khái niệm siêu hình căn cứ trên sự biện luận duy lý (takki vimansi) và các vị thầy này tự cho rằng họ có thể đạt được những hiểu biết căn cứ trên sự biện luận và những luận cứ thuần lý. Xu hướng thứ ba gồm các vị thầy đạt được sự hiểu biết bằng kinh nghiệm trực tiếp xuyên qua sự luyện tập tâm thức. Đức Phật là một vị Thầy thuộc vào nhóm thứ ba.

Đối với Phật giáo, không có chỗ nào dành cho các quan điểm thuần lý cũng như những quan điểmtính cách thần khải. Trong rất nhiều kinh sách, chẳng hạn các kinh Kalama-sutta (trong Tăng Nhất Bộ Kinh), Canki-sutta (trong Trung Bộ Kinh), Phật luôn luôn cảnh giác các đệ tử của Ngài phải xem xét, kiểm tra thật cẩn thận bằng sự hiểu biết kinh nghiệm bất cứ một điều gì trước khi chấp nhận hay phủ nhận. Sự hiểu biết bằng kinh nghiệm trực tiếp hay trí tuệ do sự tu tập đem đến khác với sự kiệnmột quan điểm hay có một đức tin, hai thể dạng hoàn toàn khác nhau.

Kết luận

Sự lý luận, phân giải, tranh biện rất cần thiết cho khoa học, giúp khoa học thiết lập những giả thuyết, trên những giả thuyết ấy sẽ xây dựng sự hiểu biết. Những giả thuyết đánh đổ lẫn nhau để thúc đẩy sự tiến bộhiểu biết. Nhưng theo Phật giáo, những hiểu biết ấy vẫn là những hiểu biết chủ quan, công thứcquy ước, mang tính cách nhị nguyên, không thể dùng để diễn tả sự thực thực tuyệt đối của hiện thực.

Tránh sự biện luận trong Phật giáo là tránh những đối nghịch và bế tắc do sư hiểu biết nhị nguyên, quy ước và sự biện luận thuần lý gây ra. Tránh sự đối nghịch không phải là một thái độ sợ sự hiểu biết mà là phương cách vượt lên trên sự hiểu biết để đạt được sự quán nhận trực tiếp, rốt ráotối thượng về bản chất đích thực của hiện thực. Sự hiểu biết rốt ráotối thượng ấy gọi là sự quán nhận siêu nhiên (panna). Đối với Phật giáo Nam tông, sự hiểu biết ấy tượng trưng cho cấp bậc thứ ba trong việc tu tập. Cấp bậc thứ nhất là tu giới, cấp bậc thứ hai là tu định (samadhi), cấp bậc thứ ba là tu quán (vipassana), tức sự quán thấy hay minh sát bằng trí tuệ. Theo Nam tông trí tuệ ấy giúp người tu tập nhận biết chính xác và trực tiếp tứ diệu đếvô ngã của con người, kết quả đưa đến là thể dạng giải thoát của bậc A-la-hán. Bắc tông gọi cấp bậc thứ ba trên đây là tu tuệ và định nghĩa khác hơn một chút. Bắc tông gọi trí tuệ đạt được trong cấp bậc tu tập thứ ba là Trí tuệ siêu nhiên còn gọi là Trí tuệ Ba-la-mật (prajnaparamita), tức là sự quán nhận trực tiếp hay sự thực hiện trực tiếpnh không của cá thể con người và của tất cả mọi hiện tượng từ tâm thức đến ngoại cảnh, sự quán nhận hay thực hiện Tánh không ấy sẽ đưa đến sự Giải thoát cuối cùng

 

Ghi chú : bài viết chủ yếu dựa theo kinh sách Nam tông. Các lời trích dẫn được trích từ các kinh sách đã được dịch thẳng từ tiếng Pa-li sang ngôn ngữ Tây phương, do đó có thể có vài sự khác biệt nhỏ so với kinh sách tiếng Việt dịch từ kinh sách gốc Hán. Các chữ chú thích trong hai dấu ngoặc đơn là tiếng Pa-li, nhưng vì lý do kỹ thuật nên không đánh dấu được.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1617)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1540)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1482)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1069)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1456)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1399)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1310)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1361)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1697)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1912)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1425)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1085)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1418)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1981)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1447)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1541)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1374)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2837)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1367)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1400)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1702)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1659)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1621)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1458)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2619)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1599)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1597)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1397)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1415)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1598)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1536)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1437)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1415)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1503)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2175)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1528)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1474)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1591)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1815)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1505)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1375)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1645)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1385)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1670)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2350)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1442)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1932)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1656)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1728)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1598)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1924)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1651)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1415)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1713)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1565)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1523)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1311)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1239)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1278)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1512)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant